Cuộc sống của chúng ta hầu như ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc mà sợ bất hạnh, khổ đau; vì vậy chúng ta phải sống như thế nào để được vui mà không bị khổ. Người không biết tu tỉnh thì vui trên cái khổ của kẻ khác hoặc của các loài vật. Người biết tỉnh thức thì vui khi tránh được điều ác, không làm tổn hại người vật, làm được việc thiện lành, tốt đẹp, có ích cho mình và người. Thế nên, nói nguời tỉnh thức được cái vui thoát tục, tức là vượt khỏi cái vui tầm thường của người thế gian.
Trước tiên, chúng ta phải biết được thế nào là cái vui của người thế tục? Cái vui đối với người hay thích sát sinh hại vật là họ muốn được ăn ngon để bồi bổ cho thân này nên họ toàn mua những con vật còn tươi sống để chế biến và thưởng thức, họ vui vẻ thích thú với việc làm đó. Mỗi ngày không có những món ngon vật lạ thì họ cảm thấy khổ sở vô cùng vì ăn uống không ngon miệng. Ai theo truyền thống có ông trời tạo ra vạn vật để phục vụ cho đấng thần linh và con người thì sẽ mang ơn ông trời. Cho nên ngày xưa người ta thường giết vô số các loài vật để cúng tế thần linh rồi sau đó con người mới dùng sau, ai cũng cảm thấy vui sướng và thích thú với việc ăn các con vật đó. Với người Phật tử chân chính thì biết tránh xa những thú vui làm đau khổ các loài vật mà luôn vui với hạnh nghiệp lương thiện, phù hợp nhân cách đạo đức làm người, vui mà không làm phiền muộn, khổ đau đến một chúng sinh nào cả.
Ví như người Phật tử ăn chay 2 ngày, 4 ngày, 6 ngày, 10 ngày, hoặc trường chay hoàn toàn; mới đầu chưa quen hình như thấy ăn chay là khổ vì không được ăn uống các thức ăn mặn nên ăn không ngon miệng mà lại mau đói, nhưng rồi thời gian đã quen họ thấy vui thích trong việc ăn chay. Một ngày ăn chay là một ngày không làm khổ chúng sinh vì loài nào cũng tham sống sợ chết. Cái vui của người ăn chay là cái vui tránh làm khổ các loài vật, nhờ vậy mà lòng từ bi của họ ngày càng thêm tăng trưởng. Họ không bao giờ muốn làm tổn hại một ai nên lúc nào cũng sống trong bình yên, hạnh phúc. Ăn chay là tránh được cái nhân sát sinh, không làm tổn hại mạng sống của muôn loài vật; như vậy là vui, vui cái vui của người biết mở rộng tấm lòng; nhưng có nhiều người tới ngày ăn chay lại còn thèm ăn mặn nên ngày ăn chay là ngày hành xác, có khi sáng ăn chay mà trưa chiều lại ăn mặn. Tuy rằng tâm tư họ lúc nào cũng muốn ăn chay nhưng vì tập khí, thói quen nhiều đời sát hại sinh vật còn xót lại nên họ chưa thật sự từ bi. Ăn chay cốt không làm tổn hại sinh mạng chúng sinh, tránh được tội lỗi, làm được điều tốt, giảm bớt lòng ham muốn dục vọng thấp hèn vì muốn ít biết đủ thì an vui, hạnh phúc.
Ngày xưa có một ông vua có thú vui hết sức lạ kỳ, ông khát máu và nổi tiếng tàn ác, thích nhìn những kẻ tội nhân bị hành hình đau đớn trước mặt. Ông cho rằng những tội nhân đáng bị giết như thế, ông vui trên sự đau khổ của kẻ bị tù đày. Sau này các quần thần thấy ông làm thế quá ác tâm mới tìm cách khuyên can không nên làm thế vì sẽ mang tiếng suốt đời. Đó là cái vui của kẻ chiến thắng trước những người thất bại, họ kiêu hãnh trị tội đối phương bằng nhiều hình thức dã man để trả thù dân tộc. Cái vui trên sự giết hại nhẹ thì bị quả báo bệnh tật, chết yểu; nặng thì bị ân oán, thù hằn vay trả hoặc trước mắt bị tù tội, bị tra khảo hành hình. Thời gian sau nhà vua gặp được Phật pháp, nhờ sự hướng dẫn của chư Tăng nên ông cải tà quy chánh, phát nguyện làm một Phật tử chân chính đúng như lời Phật dạy. Ông ra lệnh cấm săn bắn thú rừng và chính mình mở ra những ao phóng sinh để khích lệ mọi người thể hiện tấm lòng từ bi rộng lớn.
Có những người dùng ná hoặc dùng súng nhỏ đi vào vườn, vào rừng tìm thú để săn bắn. Có người săn bắn để làm thú vui chứ không ăn, họ đi săn vì muốn chứng tỏ bản lĩnh, tài năng thiện xạ để mong được nhiều người khen ngợi; cũng có những người vì nghiệp sát quá nặng nên lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để giăng bắt, lưới bẫy, chĩa chọt, săn bắn để thoả mãn thú tính sát sinh hại vật. Họ không từ nan bất cứ một hình thức nào đối với các loài vật dù lớn hay nhỏ, miễn là có sát sinh là được rồi. Trên cành cây đôi chim đang đậu rỉa lông cho nhau, hoặc kêu hót rất dễ thương, vậy mà họ nỡ đành đoạn vươn ná hoặc súng để nhắm bắn. Một con chim bị thương té nhào xuống đất thì họ xúm lại vỗ tay vui mừng và còn nói “hay quá! hay quá!”.
Đoạn mạng sống của chúng sinh là một thói quen, là hành động xấu của những kẻ không có lòng từ bi thương người, thương vật. Họ làm việc xấu ác mà lấy làm vui vẻ, thích thú lắm; chẳng những người bắn vui mà những người ăn theo cũng vỗ tay vui mừng ầm ĩ. Chúng ta vui trên sự chết chóc, khổ đau của loài vật mà không biết thương tiếc. Giết được một con vật thì chúng ta khởi niệm vui mừng, reo hò thích thú. Thật là lòng người quá ác! Từ thái độ xem thường mạng sống của các loài vật, dần dần chúng ta sẽ xem thường mạng sống của con người vì thói quen giết hại nhiều lần, rồi có thể khi không làm chủ được bản thân, khi quá nóng giận không kìm hãm được chúng ta có thể tạo tội giết người. Nhất là những người thích coi phim ảnh kích động đánh đấm, giết hại, tranh hơn tranh thua, rồi gia đình người thân bị người khác giết thì con cháu phải trả thù; lâu ngày chày tháng thành thói quen, khi có chuyện gì mâu thuẫn xảy ra trong gia đình thì không dằn được cơn giận, dẫn đến đánh đập rồi giết hại nhau. Ai có theo dõi báo chí thường xuyên sẽ nghe rất nhiều câu chuyện gia đình người thân giết hại lẫn nhau vì không kiềm chế được cơn giận.
Cho nên, Phật vì lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh mà khuyên nhủ mọi người không nên trực tiếp sát sinh hại vật, xúi bảo người khác giết hại và vui vẻ đồng tình với sự giết hại của người khác. Thế gian này sở dĩ có chiến tranh hoài không có ngày thôi dứt là từ nhân sát sinh hại vật mà ra, cái nhân ban đầu chỉ giết các loài vật để ăn rồi dần dà dẫn đến giết người không thương tiếc; như vậy là chúng ta vui vẻ trên sự buồn khổ, chết chóc, đau thương của chúng sinh; trong khi ai cũng tham sống sợ chết và cho rằng mạng sống của mình rất quý, cớ sao ta nỡ lòng nào đành đoạn nhẫn tâm giết hại. Người có chút lòng từ bi khi thấy con vật sắp bị giết thì họ thương tâm, dùng tiền chuộc lại mạng sống của chúng để phóng sinh.
Bản thân chúng tôi từ hồi còn nhỏ đã có dã tâm sát sinh hại vật, dù con vật đó không phải bắt để ăn nhưng vẫn cố tâm giết hại, hành hạ để thoã mãn thú vui; như gặp con cóc, con cắc ké thì chúng tôi bắt rồi lấy ống chích bơm nước vào mình chúng cho phù lên đến chết mới thôi. Các con vật khác như ong, ruồi, kiến, bướm, cào cào, bù tọt, ểnh ương chúng tôi giết chết không thương tiếc. Còn các loài vật ăn được như cá, tôm, cua, lươn, ếch thì chúng tôi tìm đủ mọi cách bắt câu, chích, giăng lưới, bẫy bắt; nên từ hồi nhỏ tôi đã đằng đằng sát khí, mặt mày trông rất dữ tợn. Đối với con người thì tôi thách đấu đánh lộn, khi thắng thì vui trên sự đau khổ của người bại trận, có khi bị gãy răng, bầm mắt, lỗ đầu, sức trán mà vẫn không chịu thua. Chúng tôi là hạng người ngang tàn, bướng bĩnh do thói quen hung dữ, khinh khi người, nên bất chấp mọi điều lễ nghĩa. Khi lớn lên chúng tôi làm việc ở đâu là nơi đó các loài vật bị chúng tôi tìm tòi, xơi tái không thương tiếc; thậm chí tới loài bò cạp, rắn rít, ễnh ương, bù tọt tôi cũng không tha. Khi có súng thì đi săn các loài thú rừng đủ các loài để vui chơi, ăn nhậu cho thoả thích. Ngày hôm nay có dịp rãnh rỗi ngồi viết sách để cùng chia sẻ đến với mọi người thì mình mẩy, đầu cổ đau ê ẩm giống như những con cá bị con người đập đầu, lóc da, xẻ thịt vậy. Ác nghiệp năm xưa của chúng tôi quá nặng nên bây giờ nhờ có tu hành đôi chút nên được trả bớt nghiệp mới bị bệnh tật, đau nhức hành hạ. Nhờ vậy chúng tôi mới cảm nhận được những nỗi đau mất mát trước đây chúng tôi đã từng gây ra bằng việc sát sinh, hại vật.
Phật dạy tất cả chúng sinh đều có Phật tính sáng suốt, bình đẳng, nhưng vì tập khí thói quen nhiều đời và sự hiểu biết của kẻ tỉnh người mê khác nhau nên chúng ta có mặt trong cuộc đời này đã làm tổn hại không biết bao nhiêu loài khác cũng chỉ vì mạng sống của chính mình. Người tỉnh thì vui trên tấm lòng vị tha, thương xót bình đẳng muôn loài vật. Đức Phật vì lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh ai cũng tham sống sợ chết vì đó là bản năng sinh tồn thứ nhất, mạnh nhất của muôn loài vật nên Người đã chế ra giới không được trực tiếp giết hại, xúi bảo người khác giết hại, hoặc đồng tình vui vẻ khi thấy người khác giết hại. Đó là nhân gây ra ân oán, hận thù không có ngày thôi dứt; chính vì vậy mà thế giới này luôn xảy ra binh đao, chiến tranh tàn sát lẫn nhau cũng vì nhân giết hại. Người biết tu tỉnh sẽ ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra nên quyết tâm ăn chay trường để tránh bớt hậu quả xấu ác. Ăn chay dù sau cũng đỡ hơn ăn mặn, mặc dù có tổn hại đôi chút về các loài vật nhỏ nhưng không sao vì mình không có tâm giết hại, nếu có trả quả cũng không đáng kể, sám hối và làm phước thiện thì sẽ hết.
Là người Phật tử chân chính chúng ta phải luôn ý thức không nên vui cái vui trên sự đau khổ của chúng sinh. Chúng ta đặt cái vui của mình trên cái vui của nhiều người, làm thế nào để mọi người vui thì chúng ta mới vui. Nếu ta vui trên sự đau khổ của kẻ khác thì đừng bao giờ làm như thế. Những cái vui chúng tôi vừa kể nãy giờ là những thú vui làm khổ người, khổ vật để làm vui mình, đó là những cái vui của người không có đạo đức, không có lòng từ bi. Cái vui giết hại người vật là cái vui của những kẻ vô minh mê muội, thiếu ý thức trong việc hiểu biết, nhận định đúng sai, không phải là cái vui của người có lương tâm đã tỉnh thức.
KẺ MÊ VUI TRONG ĐAU KHỔ CÁC LOÀI VẬT
Kế đến là cái vui của những người chơi cá cược trên các loài vật như việc bắt cá lia thia, bắt dế nhốt chung cho chúng đá lộn với nhau. Họ chia làm hai phe cá độ hơn thua, nhìn con này rượt con kia chạy dí, cắn nhau sứt giò gẫy cẳng, sứt da trầy lông thì họ vỗ tay reo cười, bên thua bên thắng xem ra vui vẻ và đắc ý lắm. Hoặc có người chỉ chuyên nuôi loại gà nòi hay gà tre chăm sóc rất kỹ để đi đá độ ăn tiền, tạo thú vui cờ bạc trên con vật. Chúng chăm sóc chu đáo, cạo chuốt, làm cựa gà giả cho bén để đi đá lộn. Khi hai con gà đá nhau, đầu cổ mặt mày con nào bị thua thì máu me đầy mình, con gà thua chạy thì con gà thắng rượt theo ra vẻ hăng máu lắm. Gà bên bị thua cùng người chủ và đồng bọn bực tức chửi rũa vì thua tiền, còn bên thắng thì vỗ tay vui cười trong kiêu ngạo.
Đa số thành phần chơi cá cược trên các loài vật thường là những kẻ ăn không ngồi rồi sống bám vào gia đình, người thân mới hay bày những trò như thế. Loại cờ bạc sát phạt trong việc đá gà này cũng được luật pháp nhà nước nghiêm cấm, ai chơi sẽ bị xử lý phạt tiền và tuỳ theo mức độ cá cược lớn nhỏ mà có hình phạt thích đáng. Trò chơi đá gà sát phạt nhau nếu nhỏ thì cũng năm ba người tụ tập chơi với mức cá cược không lớn lắm; nhưng có những trường gà di động mỗi lần tổ chức có hơn cả trăm người tham gia, toàn là những tay máu mặt giang hồ. Chúng tụ hợp lại chia thành hai phe có người canh gác đàng hoàng, đôi khi chúng còn móc nối chia chác với người có thẩm quyền. Thường những nhóm họp như thế dĩ nhiên có sự cá độ lớn lên đến vài trăm triệu hoặc bạc tỉ là chuyện thường. Đó là cái vui của những kẻ dã tâm tàn nhẫn, thiếu đạo đức, lấy cái khổ của loài vật làm cái vui cho chính mình.
Rồi cho đến hội chọi trâu ở nước ta cũng vậy. Mỗi Huyện, mỗi Tỉnh lựa ra những con trâu mạnh và dữ nhất để thi thắng thua và có phần trao giải thưởng. Những con vật lớn như trâu khi chúng dùng đầu và sừng đâm húc lẫn nhau trông rất dã man vì con nào cũng có cặp sừng bén nhọn, chúng húc tới đâu là máu chảy lên láng tới đó. Con nào thắng cuộc cũng bị thương tích đầy mình, con nào bỏ chạy thì coi như thua cuộc; và cứ như thế con nào thắng sẽ được vào vòng chung kết, tứ kết rồi tranh nhất nhì giống như đá banh vậy. Trò chơi này thật dã man bởi loài trâu là loài có ích, chuyên giúp ích cho người nông dân cày cấy ruộng rẫy, còn kéo xe chở hàng hoá giúp con người nữa. Vậy mà con người nỡ nhẫn tâm bày ra những trò chơi chết chóc như thế để mua vui cho mình. Xét cho kỹ, nếu chúng ta lỡ bị đứt tay chảy máu một chút thôi thì đã đau khổ vô cùng, vậy mà ta nỡ mua vui trên sự đấu đá, đâm chém của các loài vật thì quả thật quá tàn nhẫn. Vì lương tâm của người Phật tử và vì lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh nên ta chỉ tham gia vào những trò chơi có tính cách giải trí mà đem lại lợi ích cho mình và người. Kẻ mê thì vui trên sự đau khổ của các loài vật, người tỉnh thì vui trong sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Những người nắm cán cân công lý hãy nên suy xét lại mà tìm cách ngăn chặn và hạn chế bớt những tập tục cổ hữu lâu đời có tính cách làm tổn hại cho người và vật.
KẺ MÊ VUI TRONG CỜ BẠC SÁT PHẠT NHAU
Có những người có máu cờ bạc và lấy sự đánh bạc làm vui bằng nhiều hình thức như đánh đề, cá cược đá banh và đủ thứ các loại bài bạc khác. Thậm chí nhiều người sống bằng nghề này để nuôi vợ, nuôi con. Khi được thì đem tiền về sắm sửa ăn mặc, thiết đãi bà con bạn bè lấy làm vui vẻ, thích thú lắm; khi thua thì đi vay mượn, cầm bán đủ thứ rồi cuối cùng bị người ta siết nợ, phải ở nhà mướn trông rất khốn khổ. Khổ vì hết tiền, thiếu trước hụt sau nên đánh liều hết lường gạt chỗ này đến lường gạt chỗ khác; đã nghèo nàn đói rách, nhà cửa tan hoang, nợ nần bủa vây mà nay người này đòi nợ, mai người kia đòi nợ, nạt nộ, la ó um sùm; đòi mà không có tiền trả thì bị họ nói nặng nói nhẹ hoặc bị mắng chửi thậm tệ. Khi chơi cờ bạc thì vui vẻ hả hê lắm, nhưng quy luật cờ bạc ăn thì ít mà thua thì nhiều nên khổ nhiều hơn là vui; nếu có vui thì vui trên sự đau khổ của người khác. Kẻ thắng thì vênh váo tự đắc, người thua thì buồn khổ tìm cách gỡ gạt, không có tiền chơi thì tìm cách ăn trộm, cướp bóc, lừa đảo người khác. Như trường hợp cá độ đá banh, mỗi bên cả thảy 11 người chỉ giành nhau một trái banh để đá vô lưới của đối phương. Khi có đá banh thì cổ động viên hai bên ủng hộ và kẻ cờ bạc lợi dụng chỗ này để cá độ, nhiều khi mua cả cầu thủ hoặc trọng tài để giành phần thắng về mình. Khi một cầu thủ bên nào sút vào lưới đối phương thì toàn đội và cổ động viên reo mừng, hò hét khích lệ; còn bên thua thì méo mặt, buồn rầu, đau khổ.
Trong cuộc chơi kẻ thắng thì vui, kẻ thua thì buồn, tức tối, giận dữ. Người lợi dụng để chơi cờ bạc thì tìm cách móc nối, mua chuộc, bán độ, tạo ra sự mâu thuẫn không công bằng. Người thắng cuộc được tôn vinh vui vẻ, song kẻ thua và người ăn theo thì buồn rầu, đau khổ, mất mát tiền bạc. Việc chơi đánh đề ăn theo xổ số một đồng trúng 70 đồng lô hai con, 1 đồng trúng 600 đồng lô ba con và cứ như thế tăng theo luỹ số. Loại cờ bạc này cuối cùng tất cả đều tay trắng vì 100 con chỉ trúng 1 con, 99 con là thua thì thử hỏi làm sao không trắng tay cho được. Vậy mà trong thời bây giờ, phong trào đánh đề lan rộng khắp cả 3 miền đất nước, họ dựa vào chơi xổ số của nhà nước để kiếm lợi trong khi xổ số nhà nước chỉ mang tính cách gây quỹ đóng góp xây dựng, mở mang, phát triển lợi ích cho cộng đồng xã hội. Những kẻ ăn không ngồi rồi chủ nghĩa cơ hội bày ra trò đánh đề đỏ đen mà những người chủ bảo đảm ăn chắc 100%, chỉ thua những người có quyền bắt mà thôi. Rồi có những người chơi đề theo kiểu mê tín dị đoan như nằm chiêm bao sáng ra xúm lại bàn số phù hợp để đánh, ma nó biết được lòng tham con người nên nó gá vô cho trúng vài ba lần; thành ra khi trúng thì họ ăn mừng, cúng tế trả ơn; cứ như thế lâu ngày chày tháng, ma nó xúi giục cho thấy 1 số chắc chắn như đinh đóng cột. Con người vì ham quá nên cầm cố nhà cửa, quyết một phen làm giàu nhờ đánh số đề thần linh đã mách bảo. Linh đâu chẳng thấy, chỉ thấy nhà cửa phải bán trả nợ vì cố tật tham lam của mình rồi cả nhà đi thuê nhà mướn.
Chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều gia đình như thế. Vậy mà con người vẫn ham chơi số đề, không chỉ người già mà cả con nít cũng biết chơi. Ngày xưa, khi còn ở ngoài đời chúng tôi cũng đã đam mê cờ bạc và cũng từng là nạn nhân của số đề và các cược đá banh. Ngoài đời thì có nhiều tin vịt, tin hành lang truyền tai nhau, một số người lợi dụng ông lên bà nhập để cho số đề. Tôi nghe đồn chỗ đó cho số đề linh lắm nên tìm đến xin, sau khi xin số tôi ra bên ngoài ngồi chờ những người khác, hỏi ra mới biết mỗi người đều cho một số khác nhau. Như vậy chắc chắn chiều nào cũng có người trúng hết, kẻ thua thì ngậm bồ hòn không dám nói như chúng tôi chẳng hạn. Những người trúng họ đồn lên ầm ĩ, con người ta vì lòng tham nên đông đảo rủ nhau đến, vô tình làm giàu cho kẻ ăn không ngồi rồi sống trên sự mê tín ngu muội của người khác.
Đánh bài thì 5 ăn 5 thua mà còn sạt nghiệp, huống hồ là chơi theo kiểu ăn chỉ có 1 mà 99 là thua, hỏi sao gia đình không gây cãi, đánh đập rồi cuối cùng là tan nát, đổ vỡ. Khi ăn thì vui vẻ bày tiệc linh đình để thiên hạ thấy mình cao thượng, đến khi trắng tay thậm chí có người phải chịu tù tội, lúc này khổ sở, tội nghiệp biết chừng nào. Nguyên nhân vì đâu mà người ta ham thích cờ bạc, đỏ đen dù biết rằng “cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà tan nát đưa chân vào cùm”? Chúng tôi may mắn vì năm cuối trước khi đi tu do đánh số đề và cá độ đá banh mà thua đậm, nợ nần chồng chất mất khả năng chi trả, chủ nợ hăm he nói nặng nói nhẹ đòi xử giang hồ, vì không chịu nỗi nên tôi quyết định tự tử cho xong bèn về nhà từ giã mẹ lần cuối. Nhờ mẹ an ủi, động viên và khuyên nhủ nên nhờ vậy tôi mới đi tu mà có được ngày hôm nay sống vui vẻ, an ổn trong sự tu hành chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau. Cờ bạc là do lòng tham lam của con người khi thấy nhiều người đánh đâu trúng đó, nhưng vì họ có vận may đen đỏ nên mới làm tiệc chiêu đãi, ăn nhậu vui vẻ. Nhiều người cũng biết tai hại của cờ bạc là tiền mất tật mang nhưng do thói quen tham lam muốn có nhiều tiền dễ dàng, nhanh chóng, không ngờ đó là cái bẫy của những kẻ ăn không ngồi rồi bày mưu, tính kế; do vậy mới có những người bày ra cờ bạc, chứa chấp cờ bạc bằng nhiều hình thức và móc nối ăn chia với người có thẩm quyền để họ làm lơ, che dấu việc sống trên sự đau khổ của người khác.
Nói tóm lại, cờ bạc bằng nhiều hình thức đều gây ra hậu quả không tốt cho xã hội, kẻ chứa chấp, người bao che, dung túng nhau để hưởng những đồng tiền bất chính trên sự đau khổ của người khác. Đó là nguyên nhân dẫn đến nghèo khổ, thiếu thốn hoặc tan nhà nát cửa, dính vào vòng tệ nạn xã hội và làm tan nát hạnh phúc gia đình. Người tỉnh thức hãy nên nói không với cờ bạc.
KẺ MÊ VUI TRONG TRỘM CƯỚP, LƯỜNG GẠT
Có những người vì quá tham lam nên làm nghề trộm cướp bởi quan niệm “một đêm ăn trộm bằng ba năm làm”. Thấy những người nữ hay đeo vòng vàng thì liền giựt lấy đem về nhà rồi vợ chồng con cái vui cười hả hê, trong khi người mất thì buồn khổ, đau lòng vì của sắm được bằng mồ hôi nước mắt dành dụm bấy lâu nay. Hoặc có những kẻ lén khoét vách, trèo tường, lấy trộm của người khác đem về nhà mình rồi cùng vợ con ăn tiêu vui vẻ, không hề nhớ tới nỗi khổ của người mất của. Cứ như thế, người bị mất mát khổ nhiều chừng nào thì kẻ trộm lại càng vui chừng nấy. Từ chổ quen tay lấy trộm của người vì làm biếng mà muốn có nhiều tiền nên không chịu lao động, làm ăn lương thiện, riết rồi dẫn đến chỗ cướp của công khai, khi bị phát giác đành phải giết người để tẩu thoát; cuối cùng kẻ bị chết trong sự đau khổ của gia đình người thân, tên cướp của thì miễn thỏa mãn thú vui thì làm, nhưng vui đâu chẳng thấy, chỉ thấy bị tù tội, đánh đập và chờ ngày trả quả mạng đền mạng. Rồi có kẻ quyền cao chức trọng lại lạm dụng quyền uy bóc lột, xén bớt của người để vơ vét cho riêng mình. Cái vui đó quá tàn ác, không có chút lương tâm. Thế mà ở thế gian này có lắm người thích làm như vậy, hỏi sao nhà tù không ngày càng nhiều để chứa những người dính vào vòng tệ nạn chỉ vui cho mình chút đỉnh mà làm tổn hại không biết bao người; kẻ mất của có khi bị thương tật hoặc bị giết chết gây bao đau thương, khổ não cho nhiều người.
Đó là những kẻ vô minh mê muội, mất lương tâm đạo đức do thấy biết sai lầm nên tạo nghiệp bất chính mới đặt niềm vui trên sự đau khổ của người khác. Người có ý thức hay có lòng từ bi bằng tình người trong cuộc sống lúc nào cũng tỉnh táo, sáng suốt chọn lựa việc làm tốt đẹp, họ không bao giờ vui trên sự đau khổ của mọi người. Kẻ tỉnh, người mê hơn nhau ở chỗ có hiểu biết nhờ tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước báo tốt đẹp, làm ác chịu quả báo khổ đau. Nhân trộm cướp lường gạt của người khác hiện tại bị tù tội hoặc nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn vì nhân quả rất công bằng. Của người làm ra đổ mồ hôi, xót con mắt mới dành dụm được chút đỉnh, ta nỡ trộm cướp lấy đi làm người mất mát, đau khổ vô cùng. Nhiều người vì tiếc của khi bị giựt dây chuyền hay túi xách đã ngoan cố không thả ra mà cố nắm níu lại rồi la lớn kêu cứu. Kẻ cướp vì sợ bị bắt nên hoảng hồn dùng dao đâm người bị hại để tìm cách thoát thân. Cuối cùng tiền mất tật mang, người đã mất của mà còn bị trọng thương rất ư là khổ não. Đó là bài học cho những người quá tiếc của mà coi rẻ mạng sống của mình. Tiền bạc, của cải nếu mất đi còn có thể làm kiếm lại, thân này mà bị thương tật hoặc chết đi một cách vô lý thì uổng phí cuộc đời biết chừng nào.
Bản thân chúng tôi trước khi đi tu cũng dính vào vòng này. Tử khoảng 7 tuổi trở lên chúng tôi đã bắt đầu có những thói quen xấu như vậy. Trước hết là tôi nói láo để lấy tiền cha mẹ tiêu xài hoang phí. Có lần tôi đã lấy trộm tiền của ba nhưng vì biết khôn tôi chỉ lấy chút đỉnh, vậy mà ba tôi cũng biết mất. Thế là ông ấy tập hợp anh em chúng tôi lại điều tra, tôi mưu mô xảo quyệt nên không can đảm nhận tội nên làm ba tôi nghi ngờ hết cả nhà và còn đánh oan mấy đứa em tôi. Nếu người ngoài lấy thì họ đã cuỗm hết rồi. Tôi khi còn nhỏ đã có máu cờ bạc sớm nên mới chôm chĩa như vậy. Cho đến năm khoảng 12, 13 tuổi tôi đã chính thức tham gia vào các băng trộm chuyên nghiệp để lấy cắp của nhiều người khác. Mặc dù không phải là người trực tiếp hành sự nhưng tôi là người làm lá chắn hoặc chỉ điểm. Giờ đây có chút phước duyên nên được xuất gia làm người tu hành, tôi ngồi ngẫm lại hơn nửa cuộc đời thấy mình làm quá nhiều việc xấu. Tội lỗi này chắc chắn phải trả trong hiện đời hoặc tương lai về sau. Nhờ có tu chút ít nên tôi cũng cố gắng vượt qua những lầm lỗi xưa nên đã phát tâm đi vào đời để sẻ chia vật chất hoặc tinh thần cùng những mảnh đời bất hạnh và các Phật tử gần xa bằng cách viết sách, in băng đĩa biếu tặng người làm từ thiện để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống; nhờ vậy trong lòng cũng có chút nguôi ngoai về quá khứ tội lỗi năm xưa.
Bằng tất cả tấm lòng chúng tôi nói ra đây để tất cả chư huynh đệ pháp lữ gần xa cùng cảm thông mà tha thứ bỏ qua bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu biết. Chúng ta là người Phật tử chân chính, là người đã có ý thức và tỉnh sáng nên luôn lấy niềm vui của nhiều người làm niềm vui cho chính mình, chớ nên trộm cướp lường gạt của người khác để không làm tổn hại và gây đau khổ cho nhau. Đó là điều chúng tôi rất mong mỏi.
KẺ MÊ VUI TRONG UỐNG RƯỢU, HÚT CHÍCH MA TUÝ
Người vui với việc hút thuốc, uống rượu, chích xì ke vì họ đã mắc bệnh ghiền nên khi không có tiền thỏa mãn mà có ai đó cho một điếu thuốc hay ly rượu thì họ vui sướng, hoan hỷ vô cùng. Họ dường như thấy cả một niềm vui tràn ngập, đó là cái vui của người ghiền thuốc, ghiền rượu khi được đáp ứng nhu cầu đầy đủ. Trường hợp người ghiền mà họ giàu có thì họ rủ rê năm bảy người về nhà rồi tổ chức tiệc tùng, ăn nhậu vui vẻ với nhau. Kẻ ghiền nhờ uống rượu mà thỏa mãn cơn ghiền nên họ cảm thấy vui sướng, hạnh phúc làm sao; đến khi say quá mà mất tự chủ dẫn đến cãi vã, tranh chấp, xô xát rồi gây ra án mạng. Khi tỉnh lại mới biết mình đang ngồi tù chờ xét xử, bồi thường. Song, với những người chưa từng biết hút thuốc, uống rượu thì chỉ thấy cảnh người ghiền rượu, ghiền thuốc nghèo thiếu mà vẫn say xỉn tối ngày, cái vui của họ chỉ làm khổ cho gia đình, người thân; hoặc khi thấy những người giàu bày biện tiệc tùng sinh nhật, mừng lên chức, mừng bà con lâu ngày gặp lại rồi chè chén say sưa thì người tỉnh thức cho đó là nhân dẫn đến đau khổ trong hiện tại và mai sau.
Người ghiền hút thuốc và uống rượu là dụ cho người si mê, người không ghiền là dụ cho người biết tỉnh thức. Như vậy, cái vui của người mê muội thì người tỉnh cho đó là khổ, đồng một sự việc mà kẻ mê muội và người thức tỉnh thấy có khác nhau. Vì sao? Vì người mê chỉ biết tham cầu thỏa mãn sở thích cá nhân trong nhất thời nên chỉ thấy cái vui trước mắt mà không lường được hậu quả đau khổ về sau. Người có trí tuệ hiểu biết chân chính vì luôn sáng suốt, tỉnh thức nên không bao giờ nhóm họp bài tiệc linh đình, chè chén say sưa. Họ biết rõ đó là cái nhân hao tiền tốn của, hoang phí vô cùng và cuối cùng dẫn đến nghiện ngập, hậu quả là bệnh hoạn lại càng thêm đau khổ. Chi phí tiệc rượu của những gia đình lắm tiền nhiều của có thể giúp cho cả 100 gia đình sống trong 5, 3 ngày. Sự tốn hao và lãng phí như vậy họ phải ra sức làm việc gấp 5, 3 lần mới đủ cung cấp tiền cho gia đình sinh sống. Nếu không phải là việc làm chân chính thì họ tìm cách vơ vét, bóc lột của người khác để đáp ứng những tiệc vui như vậy. Người nào thường xuyên theo dõi báo chí sẽ thấy những cuộc rửa tiền tốn kém hàng trăm triệu trong khi xã hội còn rất nhiều người đang đói tình thương, đang cần những bàn tay rộng mở để giúp họ sống qua những ngày đói khát do hậu quả chiến tranh để lại.
Nếu người có gia đình vì ham vui mà rủ bạn bè ngồi quán rượu nhâm nhi, chè chén rồi hứng quá nổi máu anh hùng chơi xộp “tiệc này tôi trả hết tiền vì mới vô mánh”; không ngờ lương tháng mới vừa lãnh xong mà lỡ cao hứng nên cháy sạch túi, về nhà khi tỉnh mới biết mình quá điên dại, đành phải mượn tiền để có chi dùng cho cuộc sống gia đình. Người vợ nào lỡ lấy nhằm những ông chồng ghiền rượu thì khó bao giờ có được hạnh phúc, nếu không chịu nổi đành đưa đơn ly dị làm tan nát hạnh phúc gia đình, con cái bơ vơ, thiếu thốn. Đó là chưa nói đến người uống rượu không biết tự chủ dẫn đến say mèm, nói năng lè nhè như người điên nói chuyện một mình, đi ngã nghiêng ngã ngửa như con lật đật, về nhà nằm uạ ói mửa hôi hám làm vợ con chê chán, cha mẹ buồn phiền. Uống rượu lâu ngày thì sinh bệnh hoạn như loét bao tử, xơ gan cổ chướng, viêm gan siêu vi B, đau đường ruột…, đó là cái khổ của những kẻ ghiền rượu nhiều ngày về sau. Cái khổ trước mắt là làm cho gia đình người thân phải buồn rầu, đau khổ. Ai có những người con, người chồng, người cha như vậy là những con sâu mọt hại đời trong hiện tại và mai sau.
Cái vui của người mê muội là cái vui được thoả mãn nhu cầu cá nhân trong thoáng chốc nên bản chất của nó làm đau khổ cho mình và người thân. Do vậy, những người biết tin sâu nhân quả sẽ tỉnh thức thấy đó là nguyên nhân của đau khổ nên không bao giờ mắc phải những thói quen đó. Chúng ta là người Phật tử chân chính nhờ nghe lời Phật dạy và biết áp dụng trong đời sống hằng ngày nên lúc nào cũng hiểu biết trong tỉnh thức; nhờ tỉnh thức nên ta mới thấy những cái khổ mà người thế gian lầm tưởng đó là vui mà tránh. Giờ ta nói đến cái vui và khổ của người đã lỡ hút chích xì ke ma tuý đối với kẻ mê, người tỉnh. Có lắm người nhiều tiền của hay những chàng trai bất đắc chí muốn tìm khoái lạc nên tìm đến hút chích á phiện. Lúc đầu họ kéo 5, 3 điếu thấy trong người sảng khoái lâng lâng nên rất thích thú, đê mê; sau tìm hút hoài rồi trở thành ghiền. Các thứ ghiền trên thế gian này không có thứ ghiền nào hấp dẫn hơn là cái ghiền của nam nữ cùng hoà hợp con tim. Song, sự khoái lạc của hút chích xì ke ma tuý còn làm con người ta mê muội hơn nhiều. Vì không thấy được tác hại khủng khiếp của nó về lâu về dài nên họ chỉ biết vùi sâu trong khoái lạc mà giết chết cuộc đời trong đau khổ, lầm mê. Ta chỉ thử một vài lần là đã nghiện nặng vì chúng không như những thứ gây ghiền khác, ngày nào thiếu nó thì mình ụa ngáp, ói mửa, oằn oại trong cơn vật vã rất tội nghiệp.
Hút chích xì ke ma tuý tốn rất nhiều tiền vì chúng là thứ mắc nhất trong các loại đê mê, lâu ngày dẫn đến hao mòn sức khỏe, thân thể tiều tụy, gầy ốm bệnh hoạn, sống dở chết dở. Khi ghiền loại này rồi thì tương lai chắc chắn sẽ tiêu đời nhà ma mà còn làm khổ lụy đến gia đình, người thân và xã hội. Đó là chưa nói đến sự hao tiền tốn của quá lớn gây tán gia bại sản, dẫn đến không nhà không cửa, vô nghề nghiệp… báo hại vợ con, cha mẹ, người thân khổ sở, buồn rầu. Có những bà mẹ gầy dựng cả một đời mới có được căn nhà khang trang, việc làm ổn định, nếu không vướng vào nạn con hút chích thì gia tài mãi tới đời sau ăn cũng chưa hết; vậy mà chỉ có một đứa hút chích mà lần lượt nhà cửa, sự nghiệp đều đội nón ra đi nhanh chóng; hao tiền tốn của đã đành nhưng vì thương con nên lo lắng, khổ sở nên tinh thần suy sụp, sức khoẻ xuống cấp nhanh chóng, sống như kẻ mất hồn. Trớ trêu thay, đa số những người hút chích xì ke ma tuý lại là con của những nhà lắm tiền nhiều của. Người hiểu biết sai lầm nên mê muội tưởng hút chích á phiện là vui vẻ, lâu dài nên lao vào như con thiêu thân nạp mình cho lửa; khi ghiền rồi thì làm khổ cha mẹ, vợ con, anh em mất thời gian lo lắng, sợ hãi, tốn kém mà còn lo sợ bị tù đày lao lý nên đa số sống dở, chết dở khi có người con, người chồng, người cha như vậy. Thật là tội nghiệp biết dường nào khi gia đình nào có những con người nghiện ngập như thế, làm tổn hại tiền bạc của cải và phẩm chất nhân cách đạo đức cho gia đình và xã hội!
Chúng tôi có quen vợ chồng Phật tử gia đình hai bên đều rất giàu có, nhà bên vợ bán tiệm vàng, nhà bên chồng là chủ tiệm nhiều cây xăng và họ chỉ có một đứa con trai một. Khi người chồng dính vào xì ke ma tuý không còn chịu làm ăn mà thậm chí bỏ bê cả vợ con, chỉ một mực làm sao để có tiền phê là trên hết; khi thiếu thuốc chích thì nói chuyện ngọt ngào, dễ thương, ai nghe cũng tội nên thương xót có bao nhiêu tiền móc ra đưa hết. Anh ta hứa từ nay về sau sẽ làm ăn đàng hoàng, chăm lo vợ con nên bà mẹ tin tưởng giao quyền quản lý cây xăng; thế là trong vòng 2, 3 năm nợ nần chồng chất mà anh vẫn chứng nào tật nấy, không chừa bỏ được, anh thà bỏ vợ chứ không bỏ được bà thần tiên nâu, hết báo mẹ ruột rồi làm khổ đến vợ con, tiền bạc của cải hai bên gầy dựng giờ tiêu tán hết, vợ anh phải mượn nợ trả góp để làm ăn sinh sống nuôi con. Mấy cây xăng là kinh tế chính thức để nuôi sống gia đình người thân, lần hồi bán sạch hết để trả nợ cho đứa con hút chích. Đến khi anh chết đi thì tài sản gầy dựng mấy chục năm cũng theo đó mà đội nón ra đi trong ngậm ngùi tiếc nuối.
Người tỉnh sáng thấy hút chích xì ke ma tuý, á phiện là nhân gây khổ muôn đời cho gia đình, người thân và xã hội. Hút chích á phiện chỉ đem lại một chút khoái lạc buổi đầu, nhưng sau đó là hậu quả của bao đau thương, mất mát làm khổ gia đình, người thân. Cụ thể nhất trong hiện tại là thân tàn ma dại, tán gia bại sản, trộm cướp lường gạt, bị cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em từ bỏ, bạn bè xa lánh… Ai vô phước mới lấy phải những người chồng như thế. Do đó, người khôn ngoan, sáng suốt biết tỉnh thức mà tránh ngay từ buổi đầu nên quả khổ không bao giờ xảy đến. Đó là cái vui trước mắt của người mê muội hút chích á phiện nên để lại hậu quả thiệt hại vật chất nặng nề, làm cho con người ngày càng đánh mất đi phẩm chất nhân cách đạo đức. Thế gian này có những thanh thiếu niên rất trẻ đã biết sống với niềm vui thoát tục, xa lìa ngũ dục, ngay từ nhỏ đã biết ăn chay lo tu tỉnh nên đã xin vào Thiền viện tu rất đông, gần 200 chú tiểu. Đứng về cái nhìn của người mê thì họ châm biếm, chỉ trích, phản đối, cho đó là ngu si, dại dột, không biết ở ngoài để thụ hưởng lạc thú ở đời. Chúng ta nghiệm xét lại xem từ người hút thuốc, uống rượu, cờ bạc đỏ đen và người hút chích á phiện với những người không dính mắc vào các thứ đó coi ai mê, ai tỉnh. Khi dính vào hút thuốc, uống rượu, cờ bạc, hút chích xì ke ma tuý sẽ là nhân đưa đến nghèo đói, hao tiền tốn của, bệnh hoạn, nhà tan cửa nát… Người tỉnh thức sẽ thấy hậu quả của những việc này nên đã tránh được từ cái nhân ban đầu do có suy xét, quán chiếu. Người tỉnh biết cờ bạc, rượu chè, hút sách… là nhân đưa đến nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau trong hiện tại và mai sau nên tránh được mà bản thân không bị khổ não, bức bách, không làm phiền lụy đến người khác. Đó mới là người khôn ngoan, sáng suốt.
Nghiệp tập hút thuốc, uống rượu, phê bồ đà, hút cần sa và chích kì ke tôi cũng từng vướng phải, nói ra thật hổ thẹn và xấu hổ vô cùng; nhưng chúng tôi phải nói điều này để mọi người cùng cảm thông, thương xót những người đã lỡ dại ghiền chúng. Vì quan niệm sai lầm nghĩ chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo tốt xấu nên trong 4 món tứ đổ tường như cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm chúng tôi đều dính hết, cộng thêm cái tội trộm cướp lường gạt của người khác cùng sự bất hiếu với cha mẹ. Chúng tôi làm sao bỏ được những thứ đó để xuất gia tu học tại Thiền Viền Thường Chiếu- huyện Long Thành- tỉnh Đồng Nai cho đến bây giờ? Xin thưa với tất cả quý vị, chúng tôi không phải hay ho, tài giỏi gì mà vì nhờ có người mẹ tuyệt vời đã giúp chúng tôi làm mới lại cuộc đời, làm mới lại chính mình nhờ tình thương bao la vô bờ bến. Lần thứ nhất chúng tôi nhờ mẹ và lúc đó chúng tôi đi tu chỉ để đánh đổi cái chết mà thôi. Mẹ chúng tôi chỉ nói một câu, “đi tu đi con, đi tu sướng lắm con ơi!”; chỉ một câu nói bất hủ này mà đã thay đổi cuộc đời tàn ác không có tình người của tôi ngày ấy. Điều thứ hai đã giúp chúng tôi là nhờ có môi trường tốt, có thầy lành bạn tốt, có bậc minh sư chân chính. Nơi đây mới thật sự giúp cho chúng tôi nhận ra những kiến chấp sai lầm từ bao đời bao kiếp nhờ sự chỉ dạy tận tình của Hoà Thượng trụ trì tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu - Viện trưởng Thiền Viện Trúc Lâm Trí Đức bây giờ. Những tập khí, thói quen thông thường bên ngoài như hút thuốc, cờ bạc, uống rượu, chích hút chúng tôi bỏ được dễ dàng, chỉ còn thói quen thâm căn cố đế là phiền não tham-sân-si và luyến ái sắc dục là còn đọng lại trong tôi rất nhiều; nhưng so với 20 năm về trước chúng tôi cũng đã có phần giảm bớt tuy không được trọn vẹn hoàn toàn. Hiện tại, nhờ sống trong môi trường tốt mà chúng tôi cảm nhận được sự an lạc nội tâm từ chỗ biết buông xả các cố tật mê muội của mình.
Chút kinh nghiệm trong đời tu tôi xin được chia sẻ để mọi người vững niềm tin hơn trên suốt lộ trình tiến tới giác ngộ thành Phật viên mãn. Những kẻ mê muội vui trong hoan lạc có tính cách hao tốn, bệnh hoạn chỉ gây đau khổ cho gia đình, người thân và xã hội. Người biết tỉnh thức luôn cố gắng, quyết tâm vượt qua cạm bẫy cuộc đời, lấy niềm vui lợi ích cho nhân loại để làm hành trang sống mà cùng nhau chia vui, sớt khổ.
KẺ MÊ VUI TRONG LUYẾN ÁI
Thế gian này có những con người luôn chạy theo sắc dục và lấy đó làm vui thích. Chẳng hạn một chú thanh niên cùng một lúc giao tiếp với 5, 7 cô gái và được các cô ái mộ thì thấy vui thích, tự hào vì nghĩ mình là kẻ hào hoa phong nhã nên được nhiều nàng yêu mến. Chú ta không ngờ chính cái vui đó là cái vui trên sự đau khổ, dằn vặc của chính mình về sau. Thường những người có số đào hoa thì phải nói dóc, nói láo, hoặc phải giàu có, danh tiếng lẫy lừng mới dùng tiền bạc để dụ dỗ các cô gái. Cái khổ trước nhất của họ là thân xác hao mòn, tâm tư rối rắm vì phải bày chuyện nói nói phỉnh, nói gạt. Nhiều người đã có gia đình nhưng vẫn lăng nhăng, nay thay chồng, mai đổi vợ cứ như thay quần áo và lại lấy đó làm vui thích, tự hào. Họ không ngờ mỗi lần đổi thay là mỗi lần đau khổ, con cái đứa thiếu cha đứa thiếu mẹ, bơ vơ, lạc lỏng, khốn khổ, không biết nương tựa vào ai. Cái vui đó là cái vui ích kỷ của cha hoặc mẹ làm cho con cái phải long đong, khổ sở, thành ra dễ xao lãng, bỏ bê việc học mà theo bạn bè xấu.
Nghiệp tập luyến ái sắc dục đã từng làm chúng tôi điêu đứng và khổ sở vô cùng. Bản thân tôi đã từng xém chết vì nghiệp tình ái này. Nó là thứ làm con người ta điên đảo tranh giành, cướp bóc, giết hại lẫn nhau vì vô minh mê muội. Trong kinh Phật dạy, “nếu có một cái thứ hai giống nghiệp tình ái thì trên thế gian này không ai có thể tu được”, may mà nó chỉ có một. Trong các nghiệp tập thì đây là thứ theo đuổi chúng tôi dai dẵng từ khi mới 13, 14 tuổi cho đến tận bây giờ. Khi chưa xuất gia chúng tôi đi đến đâu là tìm kiếm tới đó, nên khi còn trẻ ai cũng nói tôi có số đào hoa. Đào hoa đâu chẳng thấy, chỉ thấy giờ ngồi ngẫm lại mà thấy đau khổ vô cùng, bởi mình chỉ lợi dụng xác thịt người khác để thoả mãn thú tính của chính mình mà thôi. Khi chưa lấy vợ thì bồ bịch lăng nhăng hết chụp cô này đến bắt cô kia, làm đủ mọi cách để được lòng nàng nên cũng phải chịu điêu đứng, khổ sở trăm bề; đến khi được rồi thì phải thức cả sáng lẫn đêm mệt mỏi, quờ quạng, thân thể hao mòn; vậy mà vẫn thèm khát hoài mới khổ!
Người xuất gia quan trọng nhất là chuyển hoá được nghiệp tập sắc dục thì hoạ may mới thành tựu viên mãn chí nguyện của mình, bởi nó không đơn giản, dễ dàng nên người mới tu như bông xoài và cuối cùng chỉ còn lại vài trái xoài trên cây. Nhiều người phải khóc vì nó bởi bẩy 80 tuổi đầu mà hỏi “hết sạch chưa” thì trả lời “còn ăn cơm được là chưa”, mới thấy nghiệp tình ái này đã làm điêu đứng cả thế giới loài người, ngay đối với người xuất gia nó cũng vẫn không tha. Bản thân chúng tôi bây giờ cũng xém chút nữa rớt đài vì tình xưa nghĩa cũ, từng tuổi này mà vẫn còn có người thương yêu lôi kéo khuyên hoàn tục đi. Thật quá xấu hổ và thẹn thùng làm sao! Chút nhân duyên xin cùng chia sẻ, tâm tình để chúng ta đừng nên nghĩ ân ái là một điều xấu xa, tội lỗi; nhưng vì chúng ta là người xuất gia nên luôn tỉnh thức mà phải xa lìa luyến ái, yêu thương nam nữ để làm tròn sứ mệnh trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Người biết tu tỉnh thì vui với cái vui biết yêu thương bình đẳng với tất cả muôn loài muôn vật. Người Phật tử chân chính thì biết giữ giới chung thuỷ một vợ một chồng, không được tà dâm, quan hệ bất chính với gia đình người khác. Trong quan hệ tình dục phải biết tiết chế điều độ cho có chừng mực, vừa phải để bảo đảm sức khoẻ làm việc nuôi dưỡng gia đình, người thân, đóng góp lợi ích xã hội và hộ trì Tam bảo. Các ông vua thời phong kiến vì cung phi mỹ nữ quá nhiều nên ít người sống hơn 50 tuổi. Chúng ta thấy, kẻ mê vui chơi hoan lạc quá mức nên tuy thấy vui nhưng thân thể lại tiều tuỵ, hao mòn, tinh thần bạc nhược, yếu đuối rồi phải chết sớm vì hết xí quách. Người biết tu tỉnh thấy rõ sự tác hại của nó nên biết tiết chế, điều hoà, do vậy giữ được sức khoẻ để làm việc lợi ích phục vụ xã hội lâu dài, nhờ vậy phước báo ngày một thêm tăng trưởng.
CÁI VUI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC
Muốn làm người biết tu tỉnh trong mọi hoàn cảnh, trước tiên ta phải biết trong mỗi con người chúng ta ai cũng có đôi mắt sáng để nhìn thấy hình ảnh mọi sự vật một cách rõ ràng. Nếu chúng ta để mắt sát vào một tấm gương thì ta sẽ không thấy gì hết, mà đứng quá xa tầm mắt thì cũng không thể thấy. Cho nên, chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải, không quá xa mà cũng không quá gần mới có thể nhìn thấy rõ ràng mọi hình ảnh, sự vật được phản ảnh đầy đủ trong tấm gương. Trước nhất, ta phải biết lòng từ bi là chất liệu sống để giúp chúng ta biết thương yêu, kính trọng tất cả mọi người một cách bình đẳng, nhất là với những người hay gây khó khăn cho ta, thường chống đối và phản bác ta, không theo ý muốn như ta hằng mong đợi. Trong kinh hay nói người hằng mong sống được thanh tịnh nên lúc nào cũng thể hiện phép lành. Phép lành ở đây là sự rèn luyện, học tập của ta để ngày càng hoàn thiện chính mình. Khi bắt đầu học Phật, chúng ta cần phải luyện tập những kỹ năng sống cho đến khi thuần thục. Việc buông xả các thói quen xấu được vận dụng trong 4 oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi giúp ta có kỹ năng sống có nghệ thuật trong học tập và rèn luyện. Đây là lời dạy chân chính ai cũng có thể lắng nghe và hiểu biết, dù là người mới học đạo hay đã huân tập lâu ngày đều có thể tìm thấy được lợi ích trong khi học tập, rèn luyện chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Tất cả chúng ta không phân biệt trình độ căn cơ, ai cũng có thể nghe và lãnh hội để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta học Phật pháp cũng lại như thế, phải biết cách buông xả từ từ cho đến khi nào ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc hoàn toàn; và rõ ràng sự bình yên đó không phải do ai ban tặng mà chính ta đã tự nỗ lực để sống được những giây phút an nhiên, tự tại, không thể có bình yên thật sự do một đấng tối cao nào ban phát cho mình cả. Để có được lòng từ bi rộng lớn, Phật đã chỉ cho ta biết cách tự hoàn thiện chính mình theo từng cấp độ từ thấp đến cao, những đức tính đó phải do mình nỗ lực chứ không phụ thuộc vào người khác. Tự lực là vấn đề then chốt căn bản trong quá trình học tập, rèn luyện để có thể giác ngộ, giải thoát. Khi ta đã được bình yên, hạnh phúc thì mình mới có thể mở lòng thương yêu người khác bình đẳng; ngược lại, nếu ta còn nương nhờ, phụ thuộc vào sự giúp đỡ, hỗ trợ, của người khác thì ta cũng không thể giải thoát được. Chúng ta muốn có một đời sống an vui, hạnh phúc theo người biết tu tỉnh, trước tiên chúng ta phải biết pháp lành, tức là những việc làm thiện ích được thể hiện qua thân-khẩu-ý; như vậy thì thiện nghiệp, thiện tâm của chúng ta sẽ được tôi luyện, huân tập một cách cụ thể và nhờ vậy mới được tăng trưởng. Người có khả năng lúc nào cũng thấy mình có đủ niềm tin về nhân quả, tin chính mình, nên hay làm một cái gì đó để cống hiến cho đời. Khi chúng ta thương người, thương đời thì chúng ta cảm thấy mình có niềm tin nhiều về khả năng của mình. Ở trong niềm tin mạnh mẽ như vậy, trong chính khả năng của mình, chúng ta mới nghĩ đến việc giúp đỡ và sẻ chia cho người khác. Những tâm hồn yếu đuối, bạc nhược không bao giờ biết trang trải lòng từ bi cho một người nào khác.
Người Phật tử chân chính trước tiên cần phải có sự chất phát, nghĩa là có một tâm hồn đôn hậu, thuần phác, giản dị. Chữ “chất phác” ở đây không phải đi đôi với chữ “thật thà” như ta thường nghĩ. Chất phác ở đây là tâm hồn không máy móc. Một người thật thà, chất phát là một người hiền đến độ có thể ngu ngơ, không biết gì. Sự đôn hậu, thuần phác mà Phật dạy ở đây là mình không quá tính toán, so đo một cách máy móc. Chúng ta có thể sống, có thể nhìn thấy cái tốt của người khác mà quên đi cái xấu của họ. Ðó là ta đã biết thông cảm và tha thứ. Một người tánh tình dễ dàng là người biết mở rộng vòng tay để bao dung và độ lượng với người khác. Ðiều này có nghĩa là hễ tâm hồn chúng ta máy móc quá thì tình thương yêu chân thật không thể phát sinh. Chúng ta tính toán nhiều quá thì chúng ta khó mà phát triển lòng từ bi, không thể nhìn đời với một cặp mắt ôn nhu, thuần hòa, chất phác. Do đó, chữ “chất phác” ở đây không có nghĩa là thật thà mà là một tâm hồn rộng lớn. Muốn có được tấm lòng trước tiên cần phải có sự chất phác. Người chất phác không chỉ nói lời chân thật mà cũng không tìm cách lợi dụng người khác hoặc làm việc gì để thủ lợi cá nhân. Chất phác là biểu hiện của người biết sống chân thật, chỉ nói và làm những điều dựa vào sự hiểu biết của mình chứ không phải làm để vừa lòng người khác. Người chất phác là người biết tôn trọng sự thật và nói lời thành thật nên lúc nào tâm cũng được bình yên, hạnh phúc.
Một người nông dân nọ rất chất phát chuyên nghề làm ruộng để nuôi sống bản thân. Mặc dù lam lũ, vất vả với nghề đồng áng nhưng anh vẫn nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn. Một hôm trên đường đi làm về, anh vô tình lượm được một sợi dây chuyền bằng vàng, nhưng bản tánh anh vốn chất phát, nhân hậu nên không nỡ lấy sợi dây chuyền mang về. Anh nghĩ người đã làm rớt chắc họ sẽ buồn khổ lắm nên quyết định ở lại chờ trả cho khổ chủ. Đã quá trưa mà chẳng thấy ai đến hỏi, dù đã đói khát nhưng anh vẫn cố nán lại thêm chút nữa. Mãi đến gần xế chiều, một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như đang tìm kiếm một vật gì đó. Anh hỏi thăm mới biết cô gái làm rớt sợi dây chuyện do nhà chồng mới hỏi cưới tặng cho. Anh vui vẻ trả lại cho cô và sau đó vẫn tiếp tục nghề làm ruộng của mình. Một thời gian sau, mọi người trong xã đã bầu anh làm lãnh đạo, nhờ vậy anh có cơ hội làm việc tích cực hơn và đời sống bà con cũng có phần khấm khá nhiều hơn trước. Vì sự thật thà, chất phát khi lượm của rơi không sinh lòng tham đắm theo tinh thần người Phật tử chân chính nên anh nông dân chuyển được nghiệp xấu và được làm quan.
Song song với sự chất phát, hiền lành chúng ta còn phải thẳn thắn, nghĩa là trung thực, không quanh co, không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế luôn thể hiện được lòng từ bi rộng lớn, đó là năng lực được huân tập nhiều đời, nhiều kiếp bằng chánh niệm tỉnh giác. Với người thẳn thắn, ta thấy dễ giao tiếp và gần gũi với họ; vì ta biết người như thế chỉ nói những gì theo sự suy nghĩ thật của mình nên ta khỏi phải nghi ngờ hay thắc mắc một điều gì; ngược lại, ta có thể tin tưởng lời nói và việc làm của họ. Những người đáng tin cậy như thế sẽ giúp ta có được mối quan hệ tốt đẹp trong đời sống hằng ngày.
Phẩm chất thứ hai người Phật tử cần có là sự hiền hòa, không kiêu mạn, một đời sống không làm tổn hại ai, không bao giờ tạo cho ai cảm giác bị đe dọa. Ở đây ý nói chúng ta không quá lo sợ, phập phồng, nên chữ “hiền hòa” Phật muốn nói đến một đời sống vô hại, một đời sống của người biết giữ giới, một người có thể mang lại cho người khác một cảm giác an lành, bình an, thoải mái. Không kiêu mạn có nghĩa là không so đo, tính toán, Phật dạy không phải khi chúng ta nghĩ mình hơn người thì đó mới là kiêu mạn. Trong Phật pháp nói rằng, tất cả những trạng thái nào khi ta so sánh giữa mình và người, mình bằng người, hơn người hoặc thua người đều là trạng thái của kiêu mạn. Vì vậy, khi chúng ta so sánh hơn hoặc thua với bất cứ ai thì tâm kiêu mạn phát sinh. Hễ tâm kiêu mạn phát sinh trong lòng người nào thì người đó không bao giờ tiến bộ được. Tại sao? Nếu ta thấy mình hơn người thì ta sẽ không học hỏi và tiến bộ thêm được. Nếu thấy mình thua người thì mình sẽ bị mặc cảm, dày vò, tự ái. Chúng ta lấy hơn-thua làm trọng, lấy thông minh-hiểu biết làm trọng thì như vậy trong sự kiêu mạn đó lòng từ bi không thể nào phát triển. Do đó, "hiền hòa, không kiêu mạn" là những đức tính cần thiết giúp cho mỗi hành giả phát triển tốt đẹp lòng từ bi rộng lớn.
Người Phật tử không được kiêu căng, ngạo nghễ với bất kỳ một ai mà còn thể hiện lòng khiêm tốn đối với mọi người. Thường thì kiêu ngạo luôn đi đôi với thất bại và dễ làm mất lòng người khác. Kiêu ngạo tức là sự chấp ngã của một “cái tôi” về sự thành đạt trong làm ăn hoặc sở hữu về tài sản vật chất hay dáng vẻ bề ngoài. Tất cả cũng chỉ để tôn vinh “cái tôi” ích kỷ này, và lòng kiêu ngạo thể hiện sự cống cao, ngã mạn khi thấy mình hơn người; chính vì vậy ta thường hay khinh khi người khác. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Pháp Đạt đến lễ Lục Tổ mà đầu không sát đất, thấy thế Tổ liền quở “trong tâm ông ắt chứa vật gì?” Pháp Đạt liền thưa, “con tụng kinh Pháp Hoa hơn 3000 bộ”. Mặc dù Pháp Đạt đến lễ Tổ nhưng nghĩ mình giỏi hơn Tổ nên trong lòng không cung kính mà tỏ ra thái độ coi thường. Sự chấp trước đó cho ta thấy người này không chấp nhận Lục Tổ giỏi hơn mình nên mới tỏ ra thái độ như thế.
Sống đơn giản dễ dàng khiến cho nhiều người yêu mến, thích gần gũi, giao tiếp, nói chuyện vui vẻ với nhau, dễ phát sinh những mối quan hệ tốt đẹp với người. Người sống dễ dàng giống như nồi không thủng đáy, không có vết nứt. Ta có thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch, trong như thế để mọi người cùng được uống. Người như thế không hay giận dữ, nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt mà thường quan tâm đến những gì người khác nói, có khả năng lắng nghe để dễ dàng cảm thông. Biết lắng nghe là hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm, là một nghệ thuật sống luôn làm người khác cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.
Hiền hoà là một đức tính đi ngược lại sự lấn lướt, muốn hơn người. Người biết bao dung và độ lượng luôn thấy được lỗi của mình nhiều hơn là thấy lỗi của người khác. Người tu nhờ thấy được lỗi mình mới biết mình sai và nhờ đó sửa sai nên ngày càng sống tốt hơn mà chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc; ngược lại, người hay thấy lỗi người khác không ích lợi gì mà còn làm tâm mình vẩn đục, khiến ta cảm thấy bực bội và không ưa người khác, từ đó dẫn đến oán giận, thù hằn mà sinh ra tranh cãi, bất đồng quan điểm với nhau.
Người thanh đạm là người sống trong sạch, đạm bạc, luôn an nhiên, tự tại và thanh thản. Do đó, ta cần phải biết bằng lòng với hiện tại, hoàn cảnh môi trường sống mà khéo thể hiện chất liệu từ bi đối với mọi người. Tri túc có nghĩa là biết đủ, người biết đủ là người không có nhiều tham cầu cá nhân quá đáng nên sống an ổn, nhẹ nhàng. Mọi phương tiện từ nhà cửa, vật dụng, đồ đạc cho đến áo quần hay ăn uống ta đều sắp xếp hài hoà. Nhờ thế ta được an vui, hạnh phúc vì ta biết bằng lòng với những gì mình đang có, không cầu kỳ, xa hoa. Chúng ta nên hiểu rằng, dầu ta có mua sắm, sở hữu nhiều thứ vật chất cũng chỉ làm cho tâm ta thêm tham lam, ích kỷ và dính mắc vào chúng. Dĩ nhiên, đời sống chúng ta cũng cần có những thứ cơ bản để đáp ứng nhu cầu hằng ngày cho được thêm thoải mái. Ham muốn nhiều thì khổ đau càng lớn, vì lòng tham con người không biết bao nhiêu mới cho là đủ. Nếu chúng ta là người biết đủ, mình sẽ dễ dàng buông xả được phiền não, khổ đau. Trước khi hiểu được thế nào là lòng từ bi, tình thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt mọi ý niệm tham cầu, chấp trước để “cái tôi” của mình rơi rụng bớt sự dính mắc. Không lăng xăng, rộn ràng thì ta không bị nhấn chìm trong lo lắng, sợ hãi. Nếu chúng ta không biết quay nhìn lại chính mình để thấy sự vọng động lăng xăng làm tâm ta càng thêm mệt mỏi, bồn chồn, lo lắng thì ta không có được phút giây nào yên lắng để suy gẫm, thiền quán nên không có được cơ hội bình yên, hạnh phúc từ nội tâm.
Thanh đạm là một đời sống giản dị, ăn cũng giản dị và ngủ cũng giản dị. Chúng ta sống không làm khổ vợ con, làm khổ gia đình, người thân vì nhu cầu của mình. Người nào mà đời sống cao quá thì không thể phát triển được lòng từ bi thương xót đối với tất cả mọi người. Nhu cầu đời sống càng đơn giản thì việc phát triển lòng từ bi càng tốt đẹp. Hễ ta quá chú trọng đến nhu cầu của mình thì chúng ta phải lo cho mình nhiều hơn, và chúng ta sẽ làm khổ người khác. Chúng ta sẽ thấy những tâm hồn vô cảm đến độ tàn nhẫn vì chỉ nghĩ đến cá nhân của mình mà quên đi lợi ích của người khác. Chúng ta đừng trách họ, vì nếu nhu cầu chúng ta cao quá thì chúng ta cũng trở nên ích kỷ và chắc chắn là lòng từ bi sẽ bị giới hạn rất nhiều.
Không rộn ràng là đời sống không lăng xăng, không vọng động. Ðiều này không có nghĩa chúng ta sống một cuộc sống quá đơn giản, không làm việc gì hết. Người nào bận rộn nhất là chứng tỏ họ có khả năng quản trị được thời gian. Họ sẽ có thì giờ riêng cho họ và họ cũng có thì giờ để làm nhiều việc khác. Nếu họ nhận công việc của ai giao phó thì sẽ hoàn thành một cách tốt đẹp. Ðiều này cho chúng ta thấy, chữ "rộn ràng" ở đây không có nghĩa là đời sống chúng ta không đa đoan. Một người đa đoan mà biết quản trị rất ngăn nắp thời gian của mình thì người đó sẽ có những giây phút rất bình yên. Thế nào là người lăng xăng, rộn ràng? Đó là người hay ôm đồm nhiều việc để chứng tỏ tài năng của mình. Nếu chúng ta vừa làm việc vừa điểm tâm, vừa coi báo vừa nghe điện thoại thì quả thật lăng xăng quá nhiều. Người lăng xăng, rộn ràng làm mất đi chính mình vì họ không còn thời gian để tịnh hoá thân tâm thì làm sao mở rộng lòng từ giúp cho người khác. Không rộn ràng là yếu tố để phát triển lòng từ bi rộng lớn.
Biết cần kiệm cũng là một đức tính tốt thể hiện sự siêng năng, tinh cần, biết tiết kiệm những gì đã được tạo ra bằng sức lao động, công khó nhọc của người khác. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng lòng với những cái ít ỏi, không đòi hỏi sự quá đáng cho mình. Nếu cuộc đời ta sống chỉ để đuổi theo những ham muốn vật chất phù phiếm thì thật là uổng công vô ích, phí thời gian của cả một kiếp người. Cần kiệm còn có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ không phải cố gắng để có được nhiều thứ sở hữu cho riêng mình, nhờ vậy mà người biết cần kiệm lúc nào cũng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
Sự thanh tịnh của các căn là một trong những yếu chỉ Đức Phật đã hướng dẫn cho chúng ta, như mắt ta nhìn thấy cái gì đẹp thì liền thích thú, muốn chiếm đoạt ngay dù chỉ là một vật không đáng giá trị; chẳng hạn khi mình nhìn thấy một đoá hoa đẹp tại một công viên, mình liền muốn hái nó ngay và sẽ khiến khung cảnh công viên mất đi vẻ đẹp thiên nhiên. 6 căn mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý luôn trong sáng là không bị chi phối quá nhiều bởi 6 trần cảnh bên ngoài là sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Ðức Phật nói, một người 6 căn luôn trong sáng tức là đối với sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp không hề cảm thấy dính mắc khoái lạc đến độ mất đi sự quân bình trong đời sống. Như vậy, chúng ta là người sống trong cuộc đời này thì mắt phải thấy, tai phải nghe, mũi phải ngửi, lưỡi phải nếm, thân phải xúc chạm và ý phải suy nghĩ; nhưng để giữ 6 căn luôn trong sáng thì ta nên biết tiết độ ở mức vừa phải. Thấy tranh thì cũng thích, thấy cảnh thì cũng thưởng thức nhưng chỉ ở mức vừa phải, đừng quá đam mê. Khi đã lệ thuộc, đã bám víu rồi thì chắc chắn đời sống chúng ta sẽ nghiêng về hướng đó và chúng ta không thể phát triển lòng từ bi. 6 cảnh chi phối chúng ta rất nhiều, đối với chúng nó ta nên giữ tâm quân bình để có thể sống không lệ thuộc. Có như vậy ta mới phát triển được tâm từ bi.
Thực tập chánh niệm, tỉnh giác giúp ta nhận thức được nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy. Các căn của chúng ta lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta thấy-nghe-ngửi-nếm-xúc chạm, do vậy ta phải luôn dòm chừng giác quan để khi thấy-nghe-ngửi-nếm-xúc chạm ta cũng không sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Ưa thích thì bị đam mê, dính mắc vào chúng, ghét bỏ thì sinh ra bực tức, hờn mát, cái nào cũng làm cho ta khổ đau hết. Khi ta thấy cái gì thì đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét, chấp thủ vào đó; với các giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Giờ có lẽ chúng ta cũng đã hiểu và có thể thực hành như thế. Điều đó có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở, tiếng động bên ngoài, đó là những lúc ta có thể thực hành khi nghe chỉ là nghe. Khi ta nhìn thấy một bông hoa đẹp, mình chỉ tập nhìn mà không nói rằng “tôi sẽ trồng loại hoa đó trong vườn", hay "cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong bình hoa", vì nó là hoa đẹp.
Chúng ta hãy nhìn và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc với sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Thanh tịnh các căn không có nghĩa là ta hủy bỏ các căn hay đè nén chúng, chỉ có nghĩa là ta nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất thật của chúng. Khi chân bị đau, ta liền biết đó là chân đau, cái biết của ta biết được chân đau. Khi chúng ta có thể thanh tịnh các căn, lòng ham muốn của ta cũng giảm bớt dần theo thời gian, giúp ta có được sự an vui, tự tại trong mọi hoàn cảnh. Vì lòng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được bình yên. Lòng ham muốn càng mãnh liệt thì sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước muốn không được toại nguyện như ý.
Thật thú vị khi biết trí tuệ là điều kiện để ta phát triển lòng từ bi. Kiến thức nhiều thì sinh lòng tham đắm, có trí tuệ thì chuyển hoá được lòng tham lam, ích kỷ. Trí tuệ được phát triển từ sự học hỏi Phật pháp và sự quán chiếu, nghiệm xét khi tu tập. Người Phật tử chân chính nếu không có trí tuệ thì không thể buông xả được phiền não tham-sân-si, nhờ có trí tuệ soi sáng nên ta mới thấy biết đúng như thật, biết rõ bản chất thật-hư của cuộc đời. Sự thành công, giàu có, cùng quyền cao chức trọng thường làm cho con người chấp ngã, phình trướng, gia tăng “cái tôi” của mình nhiều hơn. Chính vì vậy, người thiếu tu sẽ lầm đường lạc lối, chìm đắm trong cao sang, quyền quý mà làm tổn hại cho nhân loại. Ai chất chứa nhiều kiến thức thì gia tăng “cái tôi” và bám víu vào sự hiểu biết của mình, khi phải tranh luận họ thường đưa cái biết của mình vào, nên rốt cuộc chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.
Ta phải tu tập cho đến không luyến niệm, có nghĩa là luyến ái bám víu vào một đối tượng nào đó. Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam và nữ. Người nam thì sự tham muốn rất mãnh liệt là biểu hiện của sự mạnh mẽ, quyết đoán. Người nữ thì thiên về tình cảm, thường chờ đợi sự tìm đến của người khác, giống như dây leo muốn nương tựa vào một thân cây. Trái lại, người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển vọng của mình.
Nếu chúng ta thấy người khác sân hận thì ta biết rằng họ đang khổ đau lắm, vì thân tâm họ bị đốt cháy bởi sự chấp thân này làm ngã do “cái tôi” ích kỷ của mình. Ta không để lòng sân đó lôi kéo mình chạy theo trong tức tối, bực bội. Nếu ai đó đang buồn rầu, lo âu vì một chuyện không vui nào đó, ta biết họ đang bị một thứ ma mị nào đó làm cho tình cảm bị cảm xúc vui-buồn tác động, ta không ủ rũ, u sầu theo họ vì ta đang trong từng phút giây tỉnh thức, thấy rõ từng nỗi khổ, niềm đau của họ đang bị dày dò, bức bách. Nếu người khác có ý chỉ trích một ai ta cũng không nên hùa theo vì đó là chuyện riêng phải trái của họ, ta chỉ biết lắng nghe để thấy rõ mọi diễn biến đang xảy ra, nhờ vậy ta biết được ai đúng, ai sai, ta không thích nói những chuyện như thế để làm tổn hại thân tâm mình. Thực hành như vậy giúp ta có thể làm chủ được các cảm giác của mình. Khi tiếp duyên xúc cảnh ta chỉ biết ghi nhận, chúng như thế nào thì biết rõ như thế đó, không cần thêm tạp niệm nào. Khi chúng ta không làm chủ được bản thân thì ta sẽ phát sinh lòng sợ hãi, sẽ bị khiếp đảm bởi những chuyện không đâu. Khi không kiềm chế được sự nóng giận, ta sẽ sinh ra tranh cãi, lớn tiếng hơn thua mà đánh mất mình; và khi không làm chủ được các cảm xúc của mình, ta sẽ bị mọi người lôi kéo vào các cuộc chiến như nói xấu kẻ khác, phê bình, chỉ trích họ một cách gay gắt. Để không bị sự tác động của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần phải nhận diện được những cảm xúc của riêng mình, nó diễn biến ra sao ta đều biết hết. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác mà làm chủ bản thân.
Thật ra, sự nóng giận trước tiên sẽ làm thương tổn chính mình, sau đó mới làm ảnh hưởng tới người khác. Khi nóng giận ta có những lời nói không hiền lành, tay chân không đàng hoàng, mặt mày nhăn nhó rất khó coi. Ai dù đẹp cách mấy nhưng khi nóng giận cũng biến thành ma, trông rất dữ tợn. Cái làm cho mình đau khổ quá nhiều, tai hại quá lớn như vậy mà ta vẫn bị nó chi phối, sai sử. Chúng ta biết tu rồi thì phải khôn ngoan, sáng suốt. Những gì tai hại phải chừa bỏ. Như xử sự với người trong nhà, với hàng xóm lúc nào cũng ôn hòa, hiền lành, tử tế, không bao giờ nổi nóng thì mọi người đâu có giận, ghét mình. Khi ta có tai nạn gì mọi người đều giúp đỡ. Như vậy, việc làm hiền lành của mình sẽ khiến ta được người khác mến thương. Chúng ta tu là để buông xả phiền não tham-sân-si, sống lại tính biết sáng suốt của chính mình chớ không phải tu để cầu Phật ban cho cái này, cái kia. Người chỉ lo tu tâm sửa tánh hiền thiện trên nền tảng nhân quả mới thật là người biết tỉnh thức; và cuối cùng, Phật dạy chúng ta phải biết tránh xa những điều các bậc hiền Thánh chê bai, phải phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức bằng cách không làm các việc ác mà hay làm các việc lành, giữ tâm ý luôn thanh tịnh, sáng suốt.
Bất cứ một ai khi có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng đáng bị các bậc hiền Thánh chê trách; như người hay sát sinh hại vật thì gây ra oán giận, thù hằn, nhân quả tiếp nối không có ngày thôi dứt bởi tâm niệm trả thù. Luật pháp chỉ bắt bỏ tù hoặc xử trảm khi ai làm đả thương hoặc giết người, chưa có luật về sự giết hại các loài vật, nhưng có luật bảo vệ các loài thú hoang dã, quý hiếm. Người hay trộm cướp, lường gạt của người khác cũng là một thói quen xấu làm hại mình hại người, từ gia đình cho đến xã hội không ai chấp nhận nên có luật pháp để răn đe, phạt tù tội tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Kẻ tà dâm hay lăng loàn, mất nết cũng bị luật pháp nghiêm cấm. Nói dóc láo, dối gian để lợi dụng, lừa gạt kẻ khác cũng là một hành vi không tốt đánh mất lòng từ bi của chính mình. Uống rượu say sưa và hút chích xì ke, ma tuý làm tàn hại thân tâm, hao tiền tốn của gia đình, người thân và xã hội, làm huỷ hoại nhân cách đạo đức làm người khi vướng vào vòng này, chúng ta là người Phật tử thì càng không nên vi phạm vì đó là những điều đáng chê trách.
Những người hay giận dữ, sân hận cũng rất đáng chê trách vì họ làm đau khổ cho mình và người khác. Lòng sân hận rất nguy hiểm, khi ta để nó bộc phát thì có khi thiêu đốt cả rừng công đức mà bấy lâu nay mình tích luỹ. Sự ham muốn quá đáng do lòng tham lam, ích kỷ tác động tuy không bị chỉ trích bao nhiêu, nhưng nếu trong ta có hai thứ này thì sự phát triển con người tâm linh của mình sẽ bị hạn chế. Người tham lam và sân hận quá sẽ làm giảm bớt sự phát triển lòng từ bi của họ nên cũng khó bề tu tỉnh. Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng cần phải biết những gì sẽ đưa đến sự tổn hại cho người và vật cùng những gì sẽ đem lại sự lợi ích tốt đẹp. Tất cả chúng ta đều có lương tâm để tự biết hành động nào đáng chê trách và cần phải tránh xa, nhưng chúng ta thường hay bào chữa “họ làm vậy nên sao tôi không nóng giận cho được”. Chúng ta cứ hay đổ thừa tại-bị-thì-là mà không dám can đảm nhìn nhận sự thật, chỉ cần chúng ta nhận diện được mặt mũi của nó khi ta mới khởi nghĩ, nói năng hay làm một việc gì đó thì sẽ biết rõ nó tốt hay xấu; khi biết như vậy ta sẽ tự biết điều chỉnh lại những gì sai trái do bản thân suy nghĩ và hành động.
Mỗi hành giả phải nên hằng ghi nhớ trong tâm những điều sau đây: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được bình yên, hạnh phúc, an lạc, thái bình. Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện này trong tâm thì chúng ta sẽ không bao giờ có những suy nghĩ, lời nói phê bình, chỉ trích hay chống báng lại một ai. Chúng ta cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Trước mắt, chúng ta chỉ thấy được loài người, các loài vật, còn những loài khác phải có thiên nhãn mới thấy hết chúng đang hiện hữu. Do đó, những gì ta không thể thấy nghe nhưng vẫn có thể hiện hữu trong bầu vũ trụ bao la này. Chúng ta luôn mong mỏi cho tất cả chúng sinh trên thế gian này đều được sống trong bình yên, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không bao giờ có tâm làm tổn hại đến một chúng sinh nào, ta luôn có tấm lòng vì tình người trong cuộc sống. Nếu chúng ta luôn biết suy nghĩ không làm tổn hại đến một ai thì ta sẽ được bình an, hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh và ta luôn nguyện không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, không lừa đảo, dối gạt người, cũng chớ bất mãn một điều gì và cũng đừng mong ai đau khổ. Hãy nguyện cho tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, đó là lời nguyện chân chính; luôn mong mỏi muôn loài vật sống biết đùm bọc, thương yêu, như người mẹ hiền luôn hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy nhất của mình. Chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với tất cả chúng sinh trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật dạy, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ, làm cha của mình trong hằng hà sa số kiếp nối tiếp nhau thì xương đó có thể chất cao thành núi đủ để bao quanh trái đất này.
Tâm từ có thể siêu việt đến cõi trời, ngạ quỷ hay cùng khắp trong vũ trụ. Tình thương được trãi rộng đến tất cả chúng sinh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô, cấu uế làm vẩn đục. Đó là tâm tỉnh thức của những người biết buông xả mọi phiền muộn, khổ đau. Tâm phàm phu lúc nào cũng bị phiền não bức bách làm giao động, bất an, giống như chú chuột hay ngậm nhắm các thứ đồ đạc linh tinh. Kế đến là tâm không hẹp hòi, oan trái, Không hờn giận, căm thù. Người tu giận không quá một đêm huống chi là phải chất chứa tâm thù hận trong lòng. Dù ở đâu, đi đứng hay ngồi nằm thì ta cũng nên gieo trồng hạt giống lòng từ bi. Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn trong việc biểu lộ tình cảm với con cái của mình và cũng biết rõ tình cảm của mình đối với chúng ra sao, cũng như ta vẫn nhớ đến cách cư xử của cha mẹ mình lúc nào cũng thương yêu con cái hết lòng. Với những kinh nghiệm cá nhân này làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trãi rộng tình thương xa hơn nữa đối với những người chưa quen biết. Ta có một đời sống thánh thiện ngay nơi trong lòng mỗi người, điều này tạo cho ta cảm giác vui vẻ, yên ổn trong mọi hoàn cảnh. Đó là một cách sống thánh thiện ngay trong hiện tại. Sống giữa đời trần tục nhưng ta không đam mê, dính mắc, ái nhiễm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều. Mọi tham muốn luyến ái đều được chuyển hoá nên tâm ta an ổn, nhẹ nhàng. Muốn được như vậy, trước hết ta phải phát khởi tâm từ bi thương yêu đến tất cả chúng sinh như thể thương yêu đứa con duy nhất của mình. Đó là những điểm trọng yếu mà đức Phật đã hướng dẫn cho ta, những lời dạy rõ ràng làm tâm chúng ta luôn được trong sạch, sáng suốt.
Ngày xưa, có người tìm đến đức Phật để thưa hỏi một vấn đề. Ông ta nói ai cũng nghe pháp của Phật trong nhiều năm nay, tại sao có những Tăng Ni đệ tử Phật nhờ nghe pháp mà hoàn toàn thay đổi tốt đẹp, trở nên hiền hoà, tử tế, từ bi đối với mọi người; nhưng cũng có những người không thay đổi được gì cả, thậm chí có người còn đánh mất lòng thương yêu chân thật trong khi tất cả đều là đệ tử Phật đà. Phật chỉ dạy, “Ta không phải là thần linh, thượng đế hay ban phước giáng hoạ, Ta chỉ là người thầy hướng dẫn, còn làm được hay không là do những người đó”.
Lòng từ bi là tình thương yêu chân thật, là kết quả của sự chuyển hóa tự thân với tấm lòng vô ngã, vị tha trong sự hiểu biết, cảm thông và tha thứ. Lòng bao dung hướng tâm chúng ta rộng mở để tiếp thu những ý kiến, quan điểm và niềm tin trong cuộc sống. Lòng tha thứ giúp ta bỏ đi cảm giác thua thiệt rồi gây ác cảm và thù hận khi người khác xúc phạm mình. Hiểu biết để cảm thông nghĩa là ta đặt bản thân vào hoàn cảnh khó khăn của người khác khi xảy ra xung đột. Những đức tính ấy giúp ta xoa dịu bớt nỗi khổ, niềm đau để mang lại tình thương yêu chân thành. Đạo Phật luôn lấy từ bi song hành với trí tuệ, như đôi cánh của một con chim. Trí tuệ ở đây là nhận ra chân lý của cuộc đời làm cho tâm được tự tại, giải thoát. Việc thực hành tâm từ bi trước hết là thực hành lòng vị tha, sự khoan dung và hiểu biết, cảm thông. Do đó, nó là cái vô cùng quan trọng để đạt đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Tâm từ bi cũng là liều thuốc giải độc hữu hiệu cho sự ganh ghét, tật đố, oán giận, thù hằn khởi lên trong tâm mỗi người. Chúng ta biết rằng, tinh thần tiêu cực có thể sản sinh ra những độc tố phá hủy sức khỏe, thân thể lẫn tinh thần. Trong những độc tố khác nhau ấy, tâm hận thù bị dồn nén tạo nên sự hỗn loạn của tâm lý, là nguy cơ đưa đến chứng rối loạn thần kinh và bệnh trầm cảm. Ngược lại, khi tình thương được tăng trưởng thì con tim và tâm hồn mở rộng để chấp nhận mọi tình huống với mọi người và xoa dịu nỗi đau bằng tình thương, đưa bàn tay thân thiện tiếp đón người khác khi họ cần giúp đỡ. Từ bi là năng lượng đủ ấm áp để chữa lành được vết thương, đủ mạnh mẽ để vượt qua trở ngại. Đó là năng lượng tiềm ẩn cần thiết cho nhân loại, là nguồn năng lực quý giá bên trong mà tất cả chúng ta có thể trau dồi để phát triển và làm lợi ích cho mọi người. Để đạt được tỉnh thức trong cuộc sống ta cần phải tập phát triển tâm từ bi. Từ bi là biết chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cho nhiều người khác. Phần nhiều các Phật tử cứ nghĩ ai hiền lành là dễ thương, còn kẻ hung dữ thì dễ ghét. Như vậy, tâm mình còn thương người này, ghét bỏ người kia nên đâu thể gọi là lòng từ bi bình đẳng. Ta phải làm sao để người hiền mình vẫn thương mà người dữ mình cũng không ghét. Chúng ta khéo tu như vậy thì lòng từ bi mới ngày càng rộng lớn.
Tại sao người hung dữ ta không ghét? Vì khi họ nổi nóng, nói lớn tiếng nạt nộ một ai đó là họ đã bị khổ đau hành hạ rồi. Họ đã khổ nên ta cần phải thương họ, tìm cách giúp đỡ, an ủi, động viên để làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau của họ. Cho nên, biết con cái mình dở thì cha mẹ phải thương, phải khéo tìm cách này cách khác để khuyến dụ, dạy dỗ, nhắc nhở. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp mà giúp con cái hiểu biết để thức tỉnh. Từ bi trong đạo Phật là thương yêu bình đẳng tất cả chứ không phải chỉ thương người tốt mà ghét bỏ người xấu. Nhờ có tâm từ bi rộng lớn mà chúng ta mới có cơ hội tạo được nhiều công đức. Cho nên, từ bi là tập thương người một cách bình đẳng, bất luận người hiền hay dữ ta cũng đều thương xót, giúp đỡ như nhau khi cần thiết. Người lỡ tạo những điều xấu xa, tội lỗi thì ai cũng ghét bỏ nên rất khổ sở vô cùng. Vì vậy, đối với người hung dữ chúng ta tìm cách nhắc nhở, khuyến dụ để họ trở nên hiền lành, như vậy mới thực là người có tâm từ bi không bỏ một ai. Nếu chúng ta cũng ghét bỏ như những người khác thì mình vô tình đẩy họ vào hố sâu tội lỗi không có ngày thôi dứt.
Như vậy, người biết tu tỉnh nhờ biết nhẫn nhục, nhờ có tấm lòng từ bi thương xót nên mới tăng trưởng công đức. Từ bi và nhẫn nhục đâu phải hao tiền tốn của gì mới có mà chỉ trong nội tâm mình phát ra. Cho nên, chúng ta phải làm sao tạo được những công đức và đó mới chính là tài sản lâu dài. Tất cả chúng ta vì thương mình, muốn lợi ích cho nhiều người thì phải cố gắng tu tạo để phát triển tâm từ bi rộng lớn bởi đó là cái của mình, không ai có thể lấy được và không bị 5 nhà lấy mất. Chúng ta tu là phải tỉnh sáng chứ không thể mù tối hoài được. Nên vì vậy, những ai là người tu hành chân chính đều phải chuẩn bị cho mình điều này ngay trong đời này. Nếu gia đình và xã hội nào vợ chồng con cái đều biết qui y Tam bảo, biết giữ 5 giới lành thì cuộc sống sẽ hiền lành, đạo đức, không sợ trộm cướp, tà dâm hoặc thù hằn, ghét bỏ bởi ai cũng ý thức việc tu hành của mình. Người khéo biết tu thì tránh nhân xấu ác, như ngành y luôn khuyến khích ngừa bệnh hơn trị bệnh, đó là phù hợp với lời Phật dạy. Nhân xấu chúng ta không tạo thì quả xấu làm gì có, kẻ mê chờ quả khổ đến làm sao tránh khỏi, như người ăn trộm không biết sợ nhân xấu, đến khi bị bắt chịu tù tội mới sợ quả khổ. Đó là người sợ quả mà không biết sợ nhân. Khi hiểu rõ như thế, người tỉnh luôn sáng suốt không tạo nghiệp nhân ác nên chắc chắn không bị quả xấu. Phật nói, “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ-tát biết nhân ác liền tránh nên không sợ quả xấu. Kẻ mê sợ quả vì khi vui chơi trác táng không sợ, tới khi gặp quả xấu thì than trời, trách đất. Cho nên, nói tới tu là nói tới người biết tỉnh sáng chứ không phải người ngu si, người mê vui trên sự đau khổ của kẻ khác, người tỉnh chỉ vui cái vui chung của nhiều người biết làm việc tốt.
Ở đây, Phật dạy người đời khi được những món ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều hay sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp khi cảm thấy vừa ý, hài lòng thì cho là vui. Chẳng những người đời mà tất cả chư Thiên cũng thấy như thế. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức khi chúng mất đi thì chừng đó mới thấy khổ nên trong người hiện lên 5 tướng suy. Bậc Thánh thấy vui khi nơi thân này đoạn diệt được phiền não tham-sân-si là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Cái vui khi dứt mầm sanh tử mới là cái vui chân thật, vĩnh viễn và lâu dài. Sau đây, chúng tôi sẽ nêu lên những cái vui của người biết tu tỉnh.
Người biết tu tỉnh thì không làm các điều ác mà hay làm các việc lành, lúc nào cũng luôn giữ tâm ý mình được thanh tịnh, trong sáng, lặng lẽ nên vui. Lúc ngồi dưới gốc cây nhìn trời mây, cây cỏ, hoa lá, tâm hồn thanh thản, an định, cảm nhận một niềm vui tràn ngập khắp thân tâm, cảnh vật. Người tỉnh tu khi tâm thanh tịnh sẽ vui trên sự bình yên, hạnh phúc của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào. Người đời ở chỗ vắng vẻ thì buồn chán, thường vui thích ở nơi nhộn nhịp, ồn náo.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi phá được vô minh, phiền não tham-sân-si. Giả sử có người gièm pha, chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp thì người tu nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận thì liền tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc chạm gây buồn khổ cho người là tội lỗi nên ngang đó liền thôi, cơn giận từ từ lắng xuống; sau đó tâm được bình an vì lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được cơn sân giận. Nếu ta không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu, nhức óc, kẻ nói qua người trả lại, lúc đầu thì đấu khẩu, sau thì đấu đá tay chân… Như vậy, vô tình làm khổ đau cho nhau mà chẳng được lợi ích gì. Giờ đây chúng ta tự phản tỉnh và thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi lên liền biết, không chạy theo nó. Đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường, vui vẻ, không có chuyện buồn thương, giận ghét xảy ra. Thế cho nên người biết tu vui khi thắng được phiền não tham-sân-si, một cơn giận là một niệm buồn khởi lên liền biết dừng ngay, cứ như thế mà tu tỉnh từng phút, từng giờ, cho đến hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui, hạnh phúc được trọn vẹn; ngược lại, hễ ai đụng tới là buồn giận, không biết tìm cách chuyển hoá chúng thì đau khổ dài dài. Như vậy, người tỉnh phá được vô minh, phiền não là gốc vui chân thật. Ngược lại, chúng ta để cho vô minh tăng trưởng, không điều phục nó là gốc của đau khổ. Vì vậy người tu phải thường xuyên phản tỉnh, chế ngự phiền não để được an vui, hạnh phúc. Thế gian có nhiều người thật đáng thương, hễ ai nói hay làm điều gì trái ý thì họ lớn tiếng, nạt nộ trả lại cho bằng được mới vừa lòng.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi biết làm lợi ích cho nhiều người. Họ đi làm từ thiện xã hội, đem cơm áo, gạo tiền, thuốc men, đồ đạt… đến tận vùng sâu, vùng xa đưa tận tay cho những người nghèo khổ, thiếu thốn trong cơn hoạn nạn; hoặc họ hướng dẫn, sẻ chia cho nhiều người có niềm tin trong cuộc sống, biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc. Người tu tỉnh càng làm lợi ích cho nhiều người thì càng giúp mình biết cách chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại chứ không phải tìm cầu đâu xa.
Lại nữa, người tu tỉnh vui khi buông xả được phiền não tham-sân-si, nhận ra ông Phật của chính mình ngay nơi thân này. Trong mỗi người ai cũng có tính biết sáng suốt nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; giờ đây, biết khởi niệm chạy theo phải quấy, tốt xấu, đúng sai là vọng tưởng, là hư dối nên quyết định trở lại sống với ông Phật của mình thì được cái vui lâu dài.
Nếu chúng ta thấy tu là vui thì hãy nên cố gắng nỗ lực tiến tu để sống được với cái biết chân thật ngay nơi thân này. Chúng ta thấy ở thế gian này có ai giàu sang, nhiều quyền thế, thọ hưởng ngũ dục mà không khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc hay không? Khi nào chúng ta thoát ra khỏi cái khổ sanh tử thì mới được cái vui chân thật, lâu dài; nếu còn ở trong sanh tử mà có nhiều tiền lắm của thì cuối cùng cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ có người tỉnh thức biết buông xả vô minh, phiền não mới thoát khỏi già-bệnh-chết và được cái vui lâu dài. Chúng ta thường thấy người thế gian không sáng suốt nên lấy cái khổ của người, vật để làm cái vui của mình. Người biết tu tỉnh luôn có lòng từ bi nên không bao giờ lấy cái vui trên sự đau khổ của người, vật. Tất cả chúng ta phát tâm tu là nguyện sống đời bình yên, hạnh phúc. Vậy người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành chứ không phải tu cầm chừng, nếu không lo tu khi cái chết đến làm sao trở tay cho kịp? Thế cho nên, người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ phải lo tu hành mà lúc về già lại càng phải tu nhiều hơn nữa, như thế mới có được nguồn an vui, hạnh phúc trọn vẹn. Được vậy, chúng ta sống trên cõi đời này không uổng phí chút nào, còn hơn sống bảy tám mươi năm mà chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, vui chơi, hưởng thụ, rồi khi già-bệnh-chết không biết mình đi về đâu . Vậy mà hầu hết những kẻ mê đều mắc kẹt trong đó. Chúng ta biết tu là người biết tỉnh thức, còn người không biết tu tỉnh tuy sống mà như kẻ say, vui trong cái mê muội trên sự đau khổ của người và vật. Vì vậy, chúng ta hãy mau sớm tỉnh thức, vui trong những việc làm thiện ích giúp người, cứu vật; được vậy khi sống cũng như lúc sắp lâm chung đều an ổn, nhẹ nhàng, bình yên, hạnh phúc.
Tóm lại, người biết tu tỉnh sẽ ý thức trong việc trau dồi, tích luỹ nhân cách, phẩm chất đạo đức để hoàn thiện chính mình và còn mở lòng từ bi chia vui, sớt khổ trong tình thương yêu bình đẳng. Muốn được tỉnh thức trọn vẹn trước tiên chúng ta phải biết quy kính Tam bảo, phát nguyện giữ gìn những giới đức để không làm tổn hại cho người và vật; không phạm 5 giới cấm, thọ Bát quan trai, tu Thập thiện và biết cung kính bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nhờ vậy ta luôn sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc.
Nhiều người quan niệm tôi khỏi cần quy y Tam bảo nhưng vẫn giữ giới, tu Thập thiện và làm nhiều việc phước đức để hoàn thiện chính mình, quan điểm trên không phải là sai, nhưng có điều này chúng ta cần tham khảo để hiểu và thông suốt cho tường tận hơn. Người biết sống hiền lương đạo đức và hay thường xuyên giúp đỡ người khác mà còn biết tu mười điều thiện thì dĩ nhiên sau này được phước báo lớn lao là sinh về cõi Trời làm Thiên ma, hưởng thụ ngũ dục lừng lẫy, như ý, muốn gì được đó; nhưng vì không có quy kính Tam bảo nên làm Thiên ma chống lại Phật pháp vì nghĩ mình là chúa tể các loài ma. “Ma” ở đây là sự hưởng thụ ngũ dục đầy đủ; dư dã tiền bạc, của cải; danh vọng, quyền lực tối cao; có nhiều thiên nữ cung kính, hầu hạ; ăn món ngon, vật lạ và ngủ nghỉ thoải mái; chính vì vậy mà quên lãng việc tu hành của mình, chỉ lo thụ hưởng ngũ dục tối cao, đến khi phước hết vẫn bị đoạ lạc trở lại như thường. Nếu làm phước ít hơn thì được sinh làm người trở lại, tuỳ theo mức độ phước báo mà được làm lãnh đạo các cấp từ thấp đến cao; như tích lũy phước vừa thì làm chủ tịch xã, cao hơn một chút làm cấp huyện và cứ như thế tăng lên theo phước báo. Thường người có nhiều phước báo mới được làm quan, làm quan thì mọi quyền lợi vật chất được đầy đủ. Mỗi ngày bận bịu với công kia việc nọ và được sự chiêu đãi của kẻ dưới quyền nên tối ngày ăn uống, tiệc tùng, nhà cửa sang trọng, nệm ấm chăn êm; gia đình người thân cũng được lo riêng chu toàn như thế.
Làm lãnh đạo thì giúp xã hội, đất nước phát triển tốt đẹp nhiều mặt, nhưng vì không quy hướng Tam bảo, phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nên khi có quyền chỉ lo riêng cho gia đình, người thân; bên cạnh đó còn phải đối đầu với kinh tế, chính trị xã hội; vì phải bảo vệ quyền lợi, địa vị của mình mà bất chấp các thủ đoạn, dễ dẫn đến sát phạt lẫn nhau; chính vì vậy dễ sinh ân oán, thù hằn vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt. Khi còn đương chức thì mình có thể giúp đỡ nhiều người, khi hết kỳ hạn thì người khác lên và sẽ tìm cách khống chế lại mình. Chính vì những quyền lợi về chính trị mà chúng ta có thể tàn sát lẫn nhau để giành quyền lợi cho đảng phái của mình, do đó mà thế giới này luôn có xung đột, tranh chấp, chiến tranh để giành quyền sống được đầy đủ, sung túc hơn.
Người lãnh đạo một nước nếu là Phật tử chân chính, thuần thành thì họ sẽ đóng góp, phục vụ, dấn thân vì lợi ích chung mà ngày càng làm tốt mọi công việc. Cụ thể như đất nước Thái Lan gần 40 năm về trước so với Việt Nam họ thua xa lắc về mọi phương diện từ kinh tế, chính trị, đời sống an sinh xã hội; vậy mà giờ đây đất nước họ toàn thể người dân là Phật tử, kể cả những người lãnh đạo tối cao. Họ làm việc tôn trọng nhau trên tinh thần Phật pháp, nhờ vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt từ vật chất cho đến tâm linh con người. Họ biết đưa Phật pháp vào thực tế cuộc sống từ trong nhà trường cho đến bao trùm cả xã hội. Chính vì vậy mà đất nước họ tiến bộ vượt bật về mọi mặt. Từ người dân bình thường cho đến ông vua cao nhất đều phải tu học Phật pháp và mỗi người thanh niên đều phải thực tập lời Phật dạy tối thiểu từ 1 năm cho đến 3 năm.
Đất nước Nhật Bản của ngày xa xưa là phát xít, có thể nói họ là những người tàn ác nhất hành tinh này. Họ thống trị Việt Nam chỉ một thời gian ngắn mà hơn hai triệu người bị chết vì đói, không có lương thực để sống. Sau khi bị người Mỹ ném hai trái bom nguyên tử và phải đầu hàng vô điều kiện, từ đó họ bắt đầu có suy nghĩ vận dụng, thay đổi chính sách và lấy Phật giáo làm nền tảng để áp dụng cho tất cả mọi công dân. Giờ đây, họ đã thay da đổi thịt, từ con người tàn ác trở thành con người hiền hoà, nhân hậu, có nền thông tin khoa học điện tử hiện đại, tiến bộ nhất thế giới. Hình ảnh ấn tượng nhất để lại trong lòng người sau trận động đất là vô số con người thiếu thốn, đói khát phải sắp hàng đề chờ nhận phần ăn. Một chú bé khoảng 6, 7 tuối thân thể xanh xao, gầy còm, được người khác ưu tiên cho nhiều phần ăn nhưng em không nhận mà nói để dành cho những người đang thiếu thốn. Tiền bạc, của cải trôi lênh láng không phải của mình thì người dân đem giao cho nhà chức trách để trao lại cho khổ chủ. Tinh thần Phật pháp đã thấm nhuần trong lòng người dân nước Nhật nên khi họ gặp hoạn nạn, khó khăn như thế mà vẫn vui, vẫn chia sớt đầy đủ cho nhau không cần giành giựt.
Chúng tôi có biết một Phật tử đã đi hợp tác lao động tại đất nước này, anh ta nói sống ở nước Nhật khỏi phải lo nạn trộm cướp, giựt dọc linh tinh. Xe cộ để ngoài đường bình thường khỏi cần phải khoá vì ai cũng có lòng tự trọng cao, cái gì của mình mới xài, không phải của mình thì thôi, không tự ý lấy. Người dân ý thức cao như vậy nhờ biết giữ 5 giới của nhà Phật. Chúng tôi nhiều năm nay chuyên đi làm từ thiện ở vùng sâu, vùng xa để giúp đỡ người hoạn nạn nhưng chưa bao giờ thấy được những con người biết chia sẻ yêu thương với nhau thật sự. Họ lăng xăng, lao chao xúm lại giành giựt phần ít, phần nhiều. Rồi có những chỗ người có chức quyền ăn xén ăn bớt của người hoạn nạn công khai, chúng tôi nhìn những hình ảnh đau thương này mà hai hàng rơi lệ. Thật ra, nơi nào được Phật pháp thấm nhuần thì nơi đó có sự yêu thương bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng từ-bi-hỷ-xả và trái tim hiểu biết của họ tràn ngập khắp cả lòng người.
Chúng ta ai cũng có thể biết và hiểu những gì là xấu xa, tội lỗi làm tổn hại cho người và vật; nhưng một số người vẫn tán tận lương tâm, sống mất đạo đức lại còn chèn ép, bóc lột công khai của người khác. Người biết tu tỉnh chỉ vui khi thấy nhiều người cùng sống tốt đẹp, biết làm lợi ích cho xã hội trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Kẻ mê chỉ vui trên sự đau khổ của người và vật thì hỏi thế gian này sao không ngày càng mọc thêm những nhà tù để chứa những con người tệ nạn đó. Chúng tôi khi xưa cũng là những kẻ đã từng mê muội, chưa từng biết khuất phục một ai; vậy mà từ ngày gặp được Phật pháp cho đến bây giờ chúng tôi cũng đã thay da đổi thịt để chừa bỏ những thói hư, tật xấu, tuy chưa hoàn toàn hết hẳn nhưng cũng giảm bớt đáng kể.
Chút tâm tình cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa, chúng tôi luôn nguyện cầu hồng ân Tam bảo thường xuyên gia hộ cho tất cả mọi người trên thế gian này đều tỉnh thức hết, lấy cái vui vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà sống an ổn, nhẹ nhàng trong bình yên, hạnh phúc.
0 Nhận xét