Con người

Con người với sức mạnh của mình đã tạo nên nhiều điều kỳ diệu. Bên cạnh sự khám phá và cải tạo tự nhiên, con người không ngừng khám phá và tìm hiểu chính bản thân mình, mình là ai? mình từ đâu ra?

Sự hạn chế nguồn thức ăn trên cây đã đẩy một số loài vượn phải chuyển từ cuộc sống trên cây xuống đất kiếm tìm những nguồn thức ăn mới. Ban đầu cuộc sống dưới đất chỉ là sự bổ xung cho cuộc sống trên cây, nhưng do sự hạn chế thường xuyên của nguồn thức ăn trên cây nên đã cố định cuộc sống dưới đất của một số loài vượn. Trong đó có giống vượn thông minh và có khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới tiếp tục tồn tại và phát triển, những giống vượn khác không có khả năng thích ứng thì đi đến chỗ tuyệt chủng. Khả năng thích ứng cao khiến cho nguồn thức ăn của giống vượn này không ngừng tăng lên, trong thực đơn của chúng ngày càng có nhiều loại khác nhau “do đó có nhiều chất khác nhau thâm nhập vào cơ thể, tạo ra những điều kiện hoá học cho sự chuyển biến từ vượn thành người”[1].

Việc chuyển cuộc sống từ trên cây xuống đất cũng đồng nghĩa với việc con vượn phải đối mặt với nhiều mối nguy hiểm hơn, đến từ những loài thú dữ ăn thịt chẳng hạn. Điều đó đòi hỏi con vượn phải quan sát nhiều hơn, quan sát tốt hơn. Dáng đi lom khom của con vượn đã hạn chế rất nhiều việc quan sát. Mâu thuẫn đó là động lực thúc đẩy con vượn tập đứng thẳng người , đi bằng hai chân sau. Quá trình đó đòi hỏi một thời gian dài, từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua rất nhiều thế hệ, để con vượn chuyển hẳn từ dáng đi lom khom sang dáng đi thẳng bằng hai chân sau.

Việc chuyển biến từ dáng đi lom khom sang dáng đi thẳng kéo theo và đòi hỏi hàng loạt sự chuyển biến khác về cấu trúc cơ thể thậm chí là cả não bộ. Việc chuyển biến từ dáng đi lom khom sang dáng đi thẳng vì vậy mà cũng đồng nghĩa với việc chuyển biến từ con vượn thành người vượn, một giống vật trung gian giữa con vượn với con người.

Cuộc sống dưới đất cũng đòi hỏi cuộc sống tập thể phải phát triển hơn nữa,một mặt, phải liên kết với nhau trong việc xua đuổi thú dữ, mặt khác, phải phối hợp với nhau trong nhiều hoạt động khác như săn bắt thú rừng nhất là khi mà họ còn chưa thể có công cụ trong tay. Như vậy sự liên kết cũng như sự phụ thuộc giữa các cá thể đã được tăng cường làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động trong đời sống tập thể. Nhu cầu đó đã làm nảy sinh ngôn ngữ, ngôn ngữ ban đầu chủ yếu là ngôn ngữ hình ảnh có sự bổ xung của ngôn ngữ âm thanh tuy nhiên vẫn chỉ là những âm thanh chưa có âm tiết. Ngôn ngữ hình ảnh, đó là việc dùng hình vẽ, dùng tay hay bộ phận nào khác của cơ thể để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình.

Tư duy của người vượn đã phát triển hơn nhiều so với các loài động vật cao đẳng, nhưng vẫn chỉ là tư duy trực quan. Chúng ta vẫn có thể quan sát được loại tư duy này ở trong thế giới động vật thậm chí là ở cả con người. Một con thỏ chắc chắn sẽ bỏ chạy trước con hổ nhưng lại có thể không bỏ chạy trước con nai, là bởi vì nó đã có tư duy so sánh, đó là sự so sánh hình ảnh cảm tính giữa hai con vật con nai và con hổ, từ đó rút ra được những đặc điểm khác nhau giữa hai con vật, dĩ nhiên là vẫn ở dạng cảm tính.
Với dáng đi thẳng, đôi tay được giải phóng người vượn có thể làm được nhiều việc hơn, tạo điều kiện tốt hơn cho việc khám phá thế giới, ý thức nhờ vậy ngày càng được phát triển. Tay được giải phóng thì đôi hàm cũng được giải phóng khỏi nhiệm vụ đớp, giữ, tha mồi và tha con. “Miệng không phải giữ và tha mồi nữa thì mặt cũng ngắn lại và đỡ kéo gục đầu xuống. Cơ nâng mặt vốn chạy từ gờ trên của hốc mắt đến các xương cổ ngăn cản sự phát triển của não trước đây, nay không cần thiết nữa nên thoái hoá dần tạo điều kiện cho não phát triển dễ dàng hơn”[2]

Ý thức phát triển đến độ, một mặt thì hiểu rõ tự nhiên, mặt khác thì hiểu rõ mình nhờ vậy người vượn mới tách được ra khỏi tự nhiên, chính thức trở thành con người, kết thúc giai đoạn quá độ vượn thành người. Con người xuất hiện thì xã hội cũng xuất hiện, hay xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.ở những động vật cao đẳng, chúng cũng một mặt thì hiểu tự nhiên, mặt khác thì hiểu mình nhưng hãy còn rất sơ sài chưa đủ để có thể tách mình ra khỏi tự nhiên mà vẫn đồng nhất với tự nhiên. Một con thỏ chắc chắn sẽ bỏ chạy trước một con hổ, bởi vì một mặt nó hiểu nó chỉ là một con thỏ với sức mạnh hạn chế như thế nào, mặt khác nó hiểu con hổ có sức mạnh lớn lao như thế nào đối với nó. Nếu như con thỏ một mặt không hiểu mình lại nghĩ mình có sức mạnh của một con voi còn con hổ thì chỉ là một con khỉ thì nó sẽ không bỏ chạy mà sẵn sàng lao vào đánh nhau với con hổ và kết cục tất nhiên là nó sẽ bị con hổ xé xác ra.

Con người vì một mặt hiểu mình, một mặt hiểu tự nhiên nên mới có thể sáng tạo ra công cụ cái mà thích hợp đối với mình trong công cuộc cải tạo tự nhiên, lao động xuất hiện. Như vậy lao động chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Ở các loài động vật cao đẳng khác kể cả ngưòi vượn chưa hề có lao động bởi vì chúng chưa thực sự hiểu chúng, hiểu tự nhiên nên chưa thể chế tạo ra được cái gì một mặt phù hợp với mình, mặt khác thích hợp với việc cải tạo tự nhiên, công cụ lao động là điều kiện của lao động.

Việc ăn với thức ăn bằng thịt đã có ở giai đoạn người vượn, tuy nhiên đó vẫn chỉ là ngẫu nhiên chưa thường xuyên, do chưa có công cụ săn bắt trong tay nên việc săn bắt thiếu hiệu quả và không ổn định. Việc ăn thịt chỉ trở thành tất yếu, thường xuyên với con người khi đã có công cụ săn bắn trong tay. Việc “chuyển từ chỗ chỉ ăn thuần thực vật sang chỗ ăn cả thịt nữa là một bước tiến mới quan trọng trên con đường chuyển biến thành người. Thức ăn bằng thịt chứa đựng gần như sẵn sàng những chất chủ yếu mà cơ thể cần dùng để trao đổi chất trong cơ thể; nó rút ngắn quá trình tiêu hoá,đồng thời cũng rút ngắn cả thời gian của những quá trình thực vật [nghĩa là tương ứng với những hiện tượng sinh hoạt của thực vật] khác trong cơ thể, do đó mà làm cho đỡ mất thì giờ hơn, có được nhiều chất bổ và năng lượng hơn để biểu hiện tích cực một đời sống động vật theo đúng nghĩa của nó. Nhưng điều chủ yếu nhất là thức ăn bằng thịt đã tác động đến bộ óc, cung cấp rất nhiều hơn trước những chất cần thiết cho sự bồi dưỡng và phát triển của bộ óc, và nhờ đó mà từ thế hệ này sang thế hệ khác, bộ óc có thể phát triển nhanh chóng hơn và đầy đủ hơn”[4]

Với việc phải đối mặt với thời tiết lạnh giá kéo dài đã làm nảy sinh nhu cầu cần được sưởi ấm của con người. Nhu cầu đó đã thúc đẩy con người phát minh ra quần áo, việc tạo ra lửa. Trước khi tạo ra được lửa con người cũng đã từng ăn thịt chín, nhưng chỉ là ngẫu nhiên, tình cờ bắt gặp những con vật bị thui chín do cháy rừng chẳng hạn. Việc ăn thịt chín dù chỉ là ngẫu nhiên, tình cờ nhưng cũng đủ để con người nhận thức được lợi ích của việc ăn thịt chín như dễ ăn, ngon miệng, dễ tiêu hoá. Với việc tạo ra lửa, con người chuyển hẳn từ ăn thịt sống sang ăn thịt chín, việc ăn thịt chín “còn rút ngắn quá trình tiêu hoá lại hơn nữa, vì thức ăn cho vào miệng có thể nói là đã được tiêu hoá một nửa rồi”[4]

Với lao động, cùng với sự phát triển của lao động, ý thức của con người ngày càng phát triển. Tư tưởng, tình cảm của con người ngày càng phong phú. Nhu cầu trao đổi tư tưởng, tình cảm ngày một tăng lên. Ngôn ngữ hình ảnh ngày càng trở nên bất cập, không đáp ứng được nhu cầu đó. Hạn chế đó là động lực thúc đẩy ngôn ngữ âm thanh phát triển thay thế dần ngôn ngữ hình ảnh, đưa ngôn ngữ hình ảnh từ chủ yếu xuống hàng thứ yếu, là thành phần bổ xung cho ngôn ngữ âm thanh. Với việc uốn giọng thường xuyên, cuống họng ngày càng phát triển thích hợp với việc phát ra những âm thanh có âm tiết, ngôn ngữ tiếng [ngôn ngữ hiện đại]ra đời. Ngôn ngữ càng hoàn thiện thì tư tưởng của con người càng trở nên trọn vẹn hơn, rõ ràng hơn. Tư tưởng trọn vẹn hơn, rõ ràng hơn lại làm cho con người dễ dàng hơn trong việc xác định cái mình phải truyền đạt, cái mình phải làm. Như vậy tức là hoạt động sống của con người trong đó có lao động sẽ trở nên có hiệu quả hơn.

Mỗi một bước tiến trong lao động là một bước tiến trong cuộc sống, nhu cầu này được giải quyết thì nhu cầu khác lại nảy sinh. Cứ như vậy cuộc sống của con người ngày càng trở nên phong phú và sinh động.

Con người được ví như một vũ trụ thu nhỏ, con người cũng sâu thẳm như vũ trụ. Vì vậy việc khám phá con người luôn là một đề tài bất tận không bao giờ chấm dứt.


Tài liệu tham khảo:

[1] Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự Thật, tr 261
[2] Những nền văn minh thế giới, NXB Văn Hoá Thông Tin 2007
[3] Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự Thật, tr 262

[4] Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự Thật, tr 263

Đăng nhận xét

0 Nhận xét